114
Ghi chú:
Các giá trị trong cùng một hàng có mang các chữ cái khác nhau thì sai khác có ý
nghĩa thống kê (P<0,05)
Qua bảng 3.28 cho thấy: Khối lượng giết mổ ở các tổ hợp lai là tương đương
nhau (P>0,05): Tổ hợp lai (DxPD) x YMC, DP x YMC, DL x YMC và DD x YMC
lần lượt là: 82,14, 81,54, 78,62 và 79,15, tương ứng cho mỗi tổ hợp lai nói trên.
Đối với chỉ tiêu dày mỡ lưng mổ khảo sát, kết quả mổ khảo sát cho thấy các tổ
hợp lai sử dụng đực lai có giá trị dao động từ 13,84 mm ở nhóm sử dụng đực lai DP
đến 14,47 mm ở nhóm sử dụng đực lai DL, trong khi tổ hợp lai sử dụng đực DD có
dày mỡ lưng là 14,35 mm, sự sai khác này giữa các tổ hợp lai là có ý nghĩa thống kê
(P<0,05). T lệ thịt xẻ ở nhóm sử dụng đực DxP và P là 65,98 và 66,85 (tương
ứng) cao hơn so với nhóm sử dụng đực DL và DD (65,01 và 65,48%), tuy nhiên sự
sai khác này là không có ý nghĩa thống kê (P>0,05). T lệ nạc đạt cao nhất ở đàn
lợn thương phẩm khi sử dụng đực lai DP (55,05%), tiếp đến là sử dụng đực lai
DxP (54,87%), sau đó là sử dụng đực lai DL (53,68%). Kết quả là ở cả 3 tổ hợp
lai thương phẩm khi sử dụng đực lai đều cho t lệ nạc cao hơn khi sử dụng đực DD
thuần (54,12%). Các chỉ tiêu năng suất thịt xẻ trong kết quả nghiên cứu của chúng
tôi đều cao hơn, so với kết quả nghiên cứu đã công ố của Nguyễn Thị Viễn và cs.,
(2010) trên tổ hợp lai P x YMC, điều này là hoàn toàn hợp lý do những tiến bộ di
truyền đạt được trong chương trình chọn lọc đàn giống thuần cụ kỵ tại các cơ sở
giống trong những năm qua.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: