11
Chỉ số kinh tế khi kết hợp các tính trạng được chọn lọc trong chương trình
PIGBLUP được tính toán theo 2 cách:
- Tính theo phương pháp tính chỉ số VND chung (VNDIndex): Bằng phương
pháp hồi quy bội của các phân tích giá trị giống và ma trận hiệp phương
sai di
truyền với giá trị kinh tế của tính trạng đưa vào phân tích do cơ sở giống cung cấp
(giá trị trung bình tại thời điểm xác định giá trị giống).
- Tính theo chỉ số người sử dụng (uIndex): Sử dụng t trọng do người làm
công tác giống đưa ra và sử dụng nó như là một hệ số nhân với giá trị giống của mỗi
tính trạng. T trọng này của mỗi cơ sở giống có khác nhau, tuỳ theo mục đích giống
khác nhau và giá trị kinh tế của mỗi tính trạng tại mỗi cơ sở.
Trong di truyền chọn giống vật nuôi, giá trị kinh tế của một tính trạng được
định nghĩa là phần lợi nhuận gia tăng trên 1 đơn vị thay đổi di truyền của tính trạng
đó và ảnh hưởng lớn đến mức độ ưu tiên giữa các tính trạng trên một con vật.
Thông thường, giá trị kinh tế được tính toán dựa trên các yếu tố năng suất và giá cả
trong một hệ thống sản xuất và phân phối nhất định.
- Đối với tính trạng tăng khối lượng/ngày: Là phần lợi nhuận gia tăng khi tính
trạng này được cải thiện tăng thêm 1 gam. Các tham số kinh tế đưa vào tính toán ao
gồm: giá lợn con giống lúc 2 tháng tuổi, tiêu tốn thức ăn/kg tăng trọng, giá thức ăn và
các ước lượng chi phí khác ngoài thức ăn, giá án sản phẩm xuất chuồng ở 90 kg.
- Đối với tính trạng dày mỡ lưng: Là phần lợi nhuận gia tăng khi thay đổi 1
mm độ dày mỡ lưng ở lợn xuất chuồng có khối lượng xuất chuồng 90 kg. Việc tính
toán giá trị kinh tế của tính trạng này dựa vào dày mỡ lưng đo được lúc lợn đạt 90
kg và tương quan hồi quy bội giữa dày mỡ lưng và giá thành lúc giết thịt ở 90 kg.
- Đối với tính trạng số con sơ sinh/lứa: Là phần lợi nhuận được tăng thêm khi
tính trạng này được cải thiện thêm 1 con/ổ. Toàn bộ chi phí mua nái hậu bị, thức ăn,
thụ tinh nhân tạo, và chi phí khác cho lợn mẹ trong suốt giai đoạn hậu bị, mang thai,
nuôi con và chờ phối trở lại sau cai sữa đã được sử dụng để tính toán giá thành của
một lợn con sơ sinh sống/lứa, với giả định số lứa đẻ tối đa 8 lứa/nái. Đồng thời,
tổng chi phí này cũng đã được điều chỉnh bằng việc khấu trừ phần thu do bán nái
12
loại. Mặt khác, để trở thành sản phẩm có thể mua án được trên thị trường, các lợn
con sơ sinh phải được nuôi đến giai đoạn chuyển đàn (60 ngày tuổi).
Ở các quốc gia phát triển, chỉ số chọn lọc dựa trên giá trị giống ước tính của
các tính trạng bắt đầu trở nên phổ biến trong các chương trình giống lợn từ khi
phương pháp BLUP được phát triển. Bằng phương pháp này, tiến bộ di truyền của
các tính trạng sản xuất ở đàn lợn giống đã tăng 0,04 - 0,5 con/ổ/năm với tính trạng
sinh sản và giảm 0,4 - 9,5 ngày với tuổi đạt khối lượng 100kg. Ở Việt Nam, từ sau
năm 2000, một số cơ sở giống lợn đã ứng dụng chỉ số chọn lọc dựa trên giá trị
giống của các tính trạng và ước đầu đem lại hiệu quả khá cao: tăng số con sơ sinh
sống 0,045 - 0,2 con/ổ/năm và giảm mỡ lưng 0,3 - 0,4 mm/năm, (Nguyễn Quế Côi
và Võ Hồng Hạnh. 2000; Trịnh Công Thành và ương Minh Nhật. 2005 Đoàn ăn
Giải và ũ Đình Tường. 2004; Kiều Minh Lực. 2001).
Chia sẻ với bạn bè của bạn: