BỘ CÔng thưƠng dự thảO 25/4/2016 CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam


Chương III - Các biện pháp kỹ thuật, kiểm dịch (từ Điều đến Điều )



tải về 278.94 Kb.
trang4/4
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích278.94 Kb.
#30031
1   2   3   4

Chương III - Các biện pháp kỹ thuật, kiểm dịch (từ Điều đến Điều )

Chương này quy định các biện pháp kỹ thuật, kiểm dịch thực vật, động vật và kiểm tra đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.

a) Quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật và kiểm dịch động vật, thực vật

Luật quy định mục tiêu áp dụng các biện pháp kỹ thuật, kiểm dịch và các loại hàng hóa phải thực hiện các biện pháp kỹ thuật và kiểm dịch khi xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa. Trình tự, thủ tục thực hiện các biện pháp kỹ thuật, kiểm dịch thực hiện theo pháp luật chuyên ngành.



b) Kiểm tra đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu

Dự thảo Luật có quy định 3 điều về hoạt động kiểm tra đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, bao gồm: đối tượng kiểm tra, cơ quan kiểm tra và nội dung, trình tự, thủ tục kiểm tra. Việc cần có quy định này xuất phát từ thực tiễn các hoạt động kiểm tra đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu đang được quy định rải rác tại nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, chưa có một nguyên tắc và cơ sở pháp lý thống nhất dẫn đến hoạt động kiểm tra của các cơ quan có liên quan tại cửa khẩu chưa thống nhất giữa các cơ quan này với cơ quan Hải quan cũng như gây lúng túng không nhỏ đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu của cộng đồng doanh nghiệp.

Ngoài ra, quy định tại Dự thảo trên thực tế là việc thể chế hóa yêu cầu của Chính phủ tại Nghị quyết 19/NQ-CP ngày 15/3/2015 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia hai năm 2015-2016 và Quyết định 2026/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.

Điểm mới của Dự thảo Luật là đã quy định rõ đối tượng kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo đúng yêu cầu của Nghị quyết 19/NQ-CP và Quyết định 2026/QĐ-TTg. Bên cạnh đó, dự thảo Luật cũng quy định rõ yêu cầu đối với danh mục hàng hóa, trách nhiệm của các Bộ, ngành trong việc công khai, minh bạch trong áp dụng công tác kiểm tra.

Quy định như tại Dự thảo sẽ giải quyết được những khó khăn, vướng mắc của pháp luật hiện hành xuất phát từ thực trạng tồn tại riêng rẽ nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau quy định về các rào cản kỹ thuật, vệ sinh dịch tễ dẫn đến không thống nhất về mặt quy trình kiểm tra, kiểm soát, qua đó tạo ra các thủ tục hành chính vừa thiếu minh bạch, vừa rườm rà lại không thực sự hiệu quả.

3.4. Chương IV - Các biện pháp phòng vệ thương mại (từ Điều đến Điều )

Các biện pháp phòng vệ thương mại hiện nay được quy định tại 3 pháp lệnh và các văn bản hướng dẫn thi hành, tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng đã cho thấy có một số quy định chưa phù hợp và vẫn còn tồn tại những thiếu sót, phát sinh khó khăn, vướng mắc khi điều tra áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại. Do vậy, việc pháp điển hóa các văn bản pháp luật về chống trợ cấp, chống bán phá giá và các biện pháp tự vệ trong một đạo luật là cần thiết để hoàn thiện và nâng cao hiệu lực pháp lý của các công cụ này. Việc làm này sẽ tạo cơ sở pháp lý thống nhất, linh hoạt và có hiệu lực đủ mạnh trong việc điều tra và áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại. Đồng thời, giải quyết được những khó khăn về mặt pháp lý và kỹ thuật cho các cơ quan có thẩm quyền, mở ra cơ hội lớn cho Việt Nam sử dụng hiệu quả một trong số các công cụ quản lý ngoại thương để ngăn chặn những hành vi cạnh tranh không công bằng của hàng hóa nhập khẩu và bảo vệ hữu hiệu ngành sản xuất còn non trẻ trong nước một cách hợp pháp.

Xuất phát từ sự cần thiết nêu trên, Dự thảo Luật quy định theo hướng:

- Hoàn thiện các quy định về: các biện pháp phòng vệ thương mại, nguyên tắc áp dụng, điều kiện áp dụng, căn cứ tiến hành điều tra, quyết định điều tra vụ việc phòng vệ thương mại, nội dung điều tra, cung cấp và bảo mật thông tin, thời hạn điều tra, quyết định áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại, cơ quan điều tra và áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại.

- Bổ sung một số nội dung: chống lẩn tránh các biện pháp phòng vệ thương mại, áp dụng hồi tố biện pháp chống bán phá giá và chống trợ cấp.

Căn cứ trên thực tiễn áp dụng và các quy định pháp luật quốc tế, Dự thảo luật có một số quy định mới liên quan đến điều tra áp dụng biện pháp tự vệ như sau:

(1) Quy định về việc cung cấp, thu thập và bảo mật thông tin trong quá trình điều tra các vụ việc phòng vệ thương mại (Điều 79 Dự thảo): Các pháp lệnh về phòng vệ thương mại hiện nay cũng đã quy định về việc cung cấp và bảo mật thông tin. Tuy nhiên, với quy định mới của Dự thảo, luật quy định rõ quyền của cơ quan điều tra trong trường hợp các bên liên quan không hợp tác cung cấp số liệu. Theo đó, cơ quan điều tra có quyền sử dụng các số liệu, thông tin do các bên liên quan khác cung cấp để tiến hành điều tra. Quy định này phù hợp với các Hiệp định thương mại của WTO và thực tiễn điều tra áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại.

Bên cạnh đó, đối với các số liệu thông tin thu thập trong quá trình điều tra, cơ quan điều tra cũng có thể tiến hành thẩm tra, xác minh tính xác thực đối với các thông tin, tài liệu do các bên liên quan cung cấp. Hoạt động xác minh trên thực tế cũng đã được cơ quan điều tra thực hiện nhưng việc quy định vào Luật sẽ tăng cơ sở pháp lý của các thủ tục này, tạo điều kiện tốt hơn cho việc điều tra, áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại.

(2) Sửa đổi quy định về tỷ lệ đại diện của doanh nghiệp đứng đơn yêu cầu áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại. Theo quy định hiện nay, cá nhân, tổ chức nộp đơn yêu cầu áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại phải đảm bảo có lượng sản xuất chiếm 25% thị phần toàn ngành sản xuất trong nước. Quy định về tỷ lệ đại diện trong các pháp lệnh hiện hành là một trong những vướng mắc gây khó khăn cho việc khởi xướng điều tra nhiều vụ việc do các doanh nghiệp khó có thể tập trung lại cùng đứng đơn để đảm bảo điều kiện về tỷ lệ đại diện. Trong Dự thảo này, tỷ lệ đại diện bao gồm cả nguyên đơn và các nhà sản xuất ủng hộ cho việc nộp đơn phải chiếm ít nhất 25% tổng khối lượng, số lượng hàng hóa tương tự của ngành sản xuất trong nước. Quy định mới nới lỏng điều kiện về đại diện cho ngành sản xuất hơn, theo đó sẽ tạo điều kiện tốt cho các doanh nghiệp bị thiệt hại mạnh dạn nộp đơn yêu cầu.

(3) Quy định về cơ quan điều tra vụ việc phòng vệ thương mại và Hội đồng chống bán phá giá, chống trợ cấp (Điều 77). Pháp luật hiện hành đã có những quy định sơ bộ về các cơ quan có thẩm quyền điều tra, xử lý các vụ việc phòng vệ thương mại. Dự thảo luật hoàn thiện nội dung này theo hướng rõ ràng, thống nhất nhằm làm rõ nhiệm vụ quyền hạn của các cơ quan điều tra và Hội đồng.

(4) Quy định về chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại (Điều 73). Trên thực tiễn áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại trên thế giới, các nhà xuất khẩu có khả năng sử dụng một số phương pháp thương mại để hàng hóa thuộc đối tượng điều tra không phải chịu các biện pháp này. Do vậy, hiệu quả của các biện pháp không còn được duy trì trên thực tế. Để xử lý vấn đề này, Dự thảo luật đã đưa nội dung về chống lẩn tránh các biện pháp phòng vệ thương mại để tạo cơ sở pháp lý cho việc điều tra và áp dụng các biện pháp chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại.

(5) Bổ sung quy định về biện pháp tự vệ đặc biệt (Điều 102). Theo đó, biện pháp tự vệ đặc biệt được áp dụng đối với hàng hóa xuất xứ từ các nước và vùng lãnh thổ đặc biệt do việc gia tăng quá mức hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam do kết quả của việc giảm thuế theo lộ trình của các hiệp định thương mại.

Hiện nay, Việt Nam đang trong xu hướng tham gia ký kết rất nhiều các hiệp định thương mại song phương và đa phương. Các hiệp định này hầu hết đều có quy định về biện pháp tự vệ đối với các hiệp định này. Do đó, việc Dự thảo quy định về biện pháp tự vệ đặc biệt sẽ làm hoàn thiện, đầy đủ các nội dung về phòng vệ thương mại, tạo cơ sở pháp lý nội địa cho việc điều tra áp dụng biện pháp tự vệ liên quan đến các hiệp định thương mại này.

Với mục tiêu thay thế các pháp lệnh phòng vệ thương mại hiện hành, nội dung phòng vệ thương mại trong Dự thảo Luật Quản lý ngoại thương đã được rà soát, nghiên cứu xây dựng ở mức hoàn thiện cao nhất, tạo cơ sở pháp lý cho việc điều tra và áp dụng các biện pháp này.



3.5. Chương V - Kiểm soát khẩn cấp trong hoạt động ngoại thương (từ Điều đến Điều )

Chương này quy định các nội dung quan trọng liên quan đến kiểm soát xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa trong trường hợp khẩn cấp nhằm khắc phục những bất cập hiện tại như: chưa có các quy định về các trường hợp áp dụng biện pháp khẩn cấp, nội hàm và số lượng các biện pháp khẩn cấp có thể được áp dụng, cũng như chưa có quy định cụ thể về mặt thẩm quyền áp dụng để đảm bảo tính linh hoạt phù hợp với tính chất nghiêm trọng của từng trường hợp nhất định,…

Theo đó, các nội dung chính tại Chương này bao gồm quy định cụ thể một số trường hợp chính cần có sự can thiệp khẩn cấp đến hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa từ một hoặc một số đối tác thương mại xuất phát từ yếu tố khách quan (Hàng hóa đi, đến từ quốc gia, vùng lãnh thổ, vùng địa lý có xảy ra, tham gia chiến tranh, xung đột hoặc nguy cơ xung đột vũ trang trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến an ninh, lợi ích quốc gia của Việt Nam; hoặc từ nơi xảy ra thiên tai, dịch bệnh, sự cố môi trường có đe dọa nghiêm trọng đến sức khỏe của người tiêu dùng hàng hóa nhập khẩu;…).

Bên cạnh đó, các quy định tại Chương nêu rõ các biện pháp can thiệp khẩn cấp trong các trường hợp như vậy đối với các loại hàng hóa cụ thể phù hợp với điều kiện kiểm soát của Việt Nam (cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền quyết định việc áp dụng các biện pháp hành chính phù hợp quy định tại Luật – Điều 104 Dự thảo).

Ngoài ra, do việc ban hành các chính sách kiểm soát khẩn cấp có quan hệ mật thiết với các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên cũng như có ảnh hưởng lớn đến chủ trương lớn về tự do hóa thương mại nên việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp cần phải thực hiện theo một số nguyên tắc như trong những trường hợp thực sự cần thiết, phải tiến hành đánh giá, lựa chọn biện pháp gây ít thiệt hại nhất cho hoạt động ngoại thương và phải thông báo cho các đối tác thương mại được biết về việc áp dụng.

3.6. Chương VI – Các biện pháp hỗ trợ hoạt động ngoại thương (từ Điều đến Điều )

Chương này quy định về chính sách chung trong hoạt động hỗ trợ ngoại thương. Theo đó, chính sách hỗ trợ ngoại thương bao gồm một số nội dung như: (1) Nhà nước có chính sách hỗ trợ hoạt động ngoại thương thông qua các biện pháp như tín dụng, xúc tiến thương mại và các hoạt động hỗ trợ khác; (2) Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân kinh doanh trong nước và nước ngoài được tham gia các hoạt động xúc tiến ngoại thương; (3) Các biện pháp hỗ trợ hoạt động ngoại thương phải phù hợp với định hướng của Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, Chiến lược ngoại thương trong từng thời kỳ do Thủ tướng Chính phủ ban hành; (4) Các biện pháp hỗ trợ hoạt động ngoại thương được thực hiện đồng bộ với các biện pháp xúc tiến đầu tư và xúc tiến du lịch (Điều 106 Dự thảo).

Bên cạnh các chính sách chung về hỗ trợ hoạt động ngoại thương nêu trên, Dự thảo cũng quy định chính sách hỗ trợ đặc thù cho các đối tượng là chủ thể đặc thù (doanh nghiệp vừa và nhỏ, các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc, biên giới, hải đảo, các vùng có điều kiện địa lý - kinh tế khó khăn) và hàng hóa, dịch vụ đặc thù (các hàng hóa, dịch vụ có lợi thế cạnh tranh mà trong nước sản xuất được, cũng như nhập khẩu các sản phẩm công nghệ và các nguyên liệu đầu vào phục vụ sản xuất trong nước) (Điều 107 Dự thảo).

Một trong những vướng mắc, bất cập hiện nay liên quan đến các hoạt động xúc tiến thương mại đó là các biện pháp chính sách và pháp lý thời gian qua vẫn tập trung vào các hoạt động xúc tiến thương mại trong nước với các phương thức xúc tiến thương mại truyền thống; một số biện pháp xúc tiến đã có những thành công nhất định (thông qua hệ thống Thương vụ và các tổ chức xúc tiến thương mại của Việt Nam ở nước ngoài) vẫn chưa được khẳng định rõ vị trí và vai trò theo hướng quy phạm hóa ở cấp luật cũng như chưa được đổi mới về mô hình hoạt động. Bên cạnh đó, kinh phí cho hoạt động hỗ trợ xuất khẩu quá thấp nhưng lại bị phân tán cho quá nhiều lĩnh vực nên đã gây khó khăn, bó buộc sự sáng tạo, năng động của cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.

Do đó, Dự thảo Luật đã khắc phục những tồn tại nêu trên bằng việc quy định nội dung cụ thể các biện pháp xúc tiến thương mại hỗ trợ hoạt động ngoại thương, bao gồm: Hỗ trợ hoạt động ngoại thương thông qua các hoạt động xúc tiến thương mại của các tổ chức xúc tiến thương mại của Việt Nam tại nước ngoài và của nước ngoài tại Việt Nam; Hỗ trợ hoạt động ngoại thương thông qua hoạt động của Thương vụ Việt Nam tại các nước, vùng lãnh thổ. Những biện pháp này là sự cụ thể hóa các chính sách và giải pháp được đề ra tại Quyết định số 1467/QĐ –TTg ngày 24/8/2015 phê duyệt Đề án phát triển các thị trường khu vực thời kỳ 2015 - 2020, tầm nhìn đến năm 2030 và Báo cáo công tác thị trường ngoài nước ngày 18/12/2013 của Bộ Công Thương.

Cụ thể, Dự thảo Luật quy định công tác hỗ trợ ngoại thương thông qua hoạt động của mạng lưới các tổ chức xúc tiến thương mại của Việt Nam ở nước ngoài phù hợp với thực tiễn cũng như thông lệ quốc tế. Trong đó, Dự thảo Luật quy định về việc thành lập và hoạt động của các tổ chức xúc tiến thương mại Việt Nam ở nước ngoài (bao gồm cả tổ chức xúc tiến thương mại thuộc Chính phủ và phi Chính phủ) theo mô hình một hình thức tổ chức xúc tiến thương mại mới, hiện đại theo hướng hợp tác công – tư (khoản 2 Điều 109). Theo đó, Nhà nước có thể hỗ trợ việc thành lập và hoạt động ban đầu nhưng triển khai hoạt động, đóng góp tài chính thì có thể cho phép đại diện Hiệp hội, doanh nghiệp, địa phương cùng tham gia điều hành, định hướng hoạt động. Dự thảo Luật cũng làm rõ, khẳng định vị trí, chức năng và vai trò của hệ thống các Thương vụ hiện nay của Việt Nam trong công tác hỗ trợ hoạt động ngoại thương (Điều 111).

Trên cơ sở nguyên tắc đối đẳng, Dự thảo Luật cũng cho phép các tổ chức xúc tiến thương mại của quốc gia, vùng lãnh thổ hoặc các tổ chức quốc tế được thành lập các văn phòng đại diện tại Việt Nam để thực hiện các hoạt động liên quan đến xúc tiến thương mại (Điều 110). Việc cấp phép thành lập và hoạt động của các văn phòng này do Bộ Công Thương thực hiện, trên cơ sở xem xét các điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 110 Dự thảo Luật.

Dự thảo Luật cũng quy định một nguyên tắc nhằm đảm bảo kinh phí cho các hoạt động hỗ trợ phát triển ngoại thương, theo đó quy định: “Nhà nước đảm bảo kinh phí hỗ trợ hoạt động ngoại thương phù hợp với chỉ tiêu tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam do Quốc hội quyết nghị trong từng thời kỳ” (khoản 2 Điều 108).

Trong thực tiễn, một trong những vướng mắc lớn nhất cho hoạt động xúc tiến ngoại thương là kinh phí ngày càng thu hẹp, trong khi nhiệm vụ do Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao cho các Bộ, ngành địa phương đều có quy định chỉ tiêu cụ thể nhưng nguồn lực phục vụ cho công tác thúc đẩy xuất khẩu không theo kịp. Hơn nữa, với kinh phí đã bị tiết giảm, các Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia hiện nay phải phục vụ nhiều mục tiêu hơn bao gồm xúc tiến ngoại thương, xúc tiến thương mại nội địa, xúc tiến thương mại biên giới, miền núi, hải đảo. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy kinh phí xúc tiến thương mại nói chung và xúc tiến ngoại thương nói riêng đều ở mức độ cao hơn ta rất nhiều cả về mặt tuyệt đối lẫn tương đối. Kinh nghiệm các nước cũng cho thấy việc tính toán kinh phí cho hoạt động ngoại thương đều dựa trên một trong hai biện pháp sau: kinh phí xúc tiến là một mức % trên tổng kim ngạch ngoại thương hoặc kinh phí là một khoản cố định nhưng mức tăng được “neo” theo tốc độ tăng trưởng của kim ngạch ngoại thương theo một hệ số phù hợp.

Do đó có thể nói quy định về nguyên tắc đảm bảo kinh phí cho hoạt động hỗ trợ phát triển ngoại thương tại Dự thảo Luật là phù hợp với thực tế cũng như kinh nghiệm quốc tế.

Các giải pháp nêu trên một mặt hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước trong việc tìm hiểu thị trường, tìm kiếm đối tác, tận dụng triệt để thế mạnh các mặt hàng tiêu biểu cho ngành sản xuất trong nước trong mối quan hệ với thị hiếu của người tiêu dùng nước ngoài; mặt khác, nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp đa phần còn non trẻ trong nước với các doanh nghiệp lớn của nước ngoài trên thương trường đầy khốc liệt và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Đồng thời, với chính sách hỗ trợ ngoại thương ưu tiên áp dụng cho các đối tượng đặc thù, nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các mặt hàng nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, hàng hóa của các vùng địa lý đặc biệt khó khăn (hải đảo, biên giới, vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn,…) sẽ được hưởng nhiều ưu đãi và được Nhà nước tạo điều kiện hỗ trợ, khuyến khích xuất khẩu ra thị trường rộng lớn và nhiều tiềm năng trên thế giới. Bên cạnh đó, Nhà nước vừa có thể quản lý được một cách thống nhất và hiệu quả các chính sách, biện pháp hỗ trợ ngoại thương, thúc đẩy xuất khẩu, quảng bá hình ảnh, thương hiệu của các doanh nghiệp và hàng hóa trong nước; lại vừa có thể hỗ trợ tích cực cho nền sản xuất trong nước một cách hợp pháp, phù hợp với các cam kết và thông lệ quốc tế.

3.7. Chương VII - Giải quyết tranh chấp về ngoại thương (từ Điều đến Điều )

Chương này quy định nguyên tắc trong giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực ngoại thương, theo đó Nhà nước chỉ tham gia giải quyết tranh chấp về ngoại thương trong trường hợp áp dụng các biện pháp quản lý ngoại thương liên quan đến quan hệ giữa Chính phủ Việt Nam với Chính phủ nước ngoài theo các quy định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam một cách kịp thời, hợp lý. Các tranh chấp về ngoại thương giữa các thương nhân Việt Nam (bao gồm cả các doanh nghiệp nhà nước) và thương nhân nước ngoài do các thương nhân tự mình giải quyết theo thỏa thuận và quy định của pháp luật cũng như các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Chương này cũng quy định về cơ quan quản lý nhà nước tham gia giải quyết tranh chấp về ngoại thương là Chính phủ với đầu mối tham mưu là Bộ Công Thương (Điều 113); trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp do nước ngoài khởi kiện (Điều 114) và trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp do Chính phủ Việt Nam khởi kiện (Điều 115).

3.8. Chương VIII - Giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm (Điều và Điều )

Dự thảo Luật quy định việc khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến các biện pháp quản lý ngoại thương được thực hiện theo quy định của Luật khiếu nại, Luật tố cáo. Tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm quy định của Luật này thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; trường hợp gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

Dự thảo Luật cũng quy định người lợi dụng chức vụ, quyền hạn cản trở hoạt động ngoại thương, có hành vi sách nhiễu, gây phiền hà đối với thương nhân, không thực thi công vụ theo quy định của pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

3.9. Chương IX - Điều khoản thi hành (Điều và Điều )

Chương này quy định về việc tổ chức thi hành và điều khoản chuyển tiếp đối với hoạt động quản lý ngoại thương.

Để không làm ảnh hưởng đến hoạt động của công tác quản lý Nhà nước của các cơ quan quản lý chuyên ngành, qua đó đảm bảo hoạt động ngoại thương của thương nhân diễn ra bình thường, dự thảo quy định khoảng thời gian chuyển tiếp để cơ quan quản lý nhà nước có điều kiện tiến hành tổ chức hoạt động quản lý, cơ sở kỹ thuật, sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan để phù hợp với quy định của luật này. Theo đó, quy định này sẽ phân biệt: (i) các quy định có thể áp dụng ngay; (ii) các quy định phải tiến hành theo lộ trình chuyển tiếp.

IV. DỰ KIẾN NGUỒN LỰC, ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM CHO VIỆC SOẠN THẢO VĂN BẢN

Về nhân lực: Bộ Công Thương đã thành lập Ban soạn thảo, Tổ biên tập theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; thành phần Ban soạn thảo gồm đại diện của các Bộ, ngành liên quan (Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Y tế, Văn phòng Chính phủ, Văn phòng Quốc hội, Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam,…) và đặc biệt là có sự tham gia của đại diện Ủy ban Kinh tế của Quốc hội - cơ quan có thẩm quyền thẩm tra Dự án Luật trước khi trình Quốc hội thông qua.

Về kinh phí: kinh phí hỗ trợ cho việc soạn thảo văn bản được lấy từ nguồn kinh phí xây dựng pháp luật.

V. THỜI GIAN TRÌNH QUỐC HỘI XEM XÉT, THÔNG QUA

Theo Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội, Dự án Luật Quản lý ngoại thương sẽ được trình Quốc hội lần đầu vào kỳ họp thứ hai, năm 2016 và thông qua vào kỳ họp thứ nhất, năm 2017./.



BỘ CÔNG THƯƠNG

1 Trích Điều 1 Nghị định số 95/2012/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2012 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công Thương..

2 Trên thực tế, đối với số liệu liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương được Tổng cục Hải quan cung cấp. Số liệu liên quan đến thương mại với các vùng, lãnh thổ trên thế giới được cập nhật bởi Tổng cục Thống kê. Việc sản xuất kinh doanh của các ngành nghề khác nhau được cung cấp, theo dõi bởi các Bộ ngành quản lý chuyên ngành (Nông nghiệp là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn…).

3 Quy hoạch trồng cà phê những năm trước đây là một ví dụ cho sự thiếu thống nhất này.

4 Cơ chế cung cấp thông tin về xuất khẩu, nhập khẩu giữa Bộ Công Thương, Tổng Cục Hải quan (Bộ Tài Chính) và Tổng Cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) là chưa rõ ràng.

5 Đoạn 1 Phần IV Chiến lược kinh tế - xã hội từ 2011 – 2020 - Văn kiện Đại hội thứ XI của Đàng.

6 Đoạn 4 Phần IV Chiến lược kinh tế - xã hội từ 2011 – 2020 - Văn kiện Đại hội thứ XI của Đàng

7 Chẳng hạn, Ban quản lý Khu kinh tế cửa khẩu Mộc Bài và các cơ quan chức năng ở địa phương đã đưa ra các quy định phân bổ hạn ngạch nhập khẩu rượu, bia cho các doanh nghiệp trong Khu kinh tế, trong khi theo Nghị định 187 thì các mặt hàng này không thuộc diện quản lý theo hạn ngạch thuế quan, v.v. và do đó cũng tạo nên sự chồng chéo trong hệ thống văn bản.


8 Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Phương hướng, mục tiêu chủ yếu phát triển kinh tế, xã hội trong 5 năm 1986-1990. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.

9 Đoạn 1 Phần IV Chiến lược kinh tế - xã hội từ 2011 – 2020 - Văn kiện Đại hội thứ XI của Đàng.

10 Đoạn 4 Phần IV Chiến lược kinh tế - xã hội từ 2011 – 2020 - Văn kiện Đại hội thứ XI của Đàng

11 Báo cáo của Ban chấp hành Trung ương khóa IX tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã nêu rõ nhiệm vụ của ngành ngoại thương trong kế hoạch 5 năm 2006-2010. Đó là: “(1) Tận dụng điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, chủ động và khẩn trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới công nghệ và quản lý, phát huy lợi thế so sánh, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, của sản phẩm và dịch vụ Việt Nam tại thị trường trong nước và trên thế giới. Đẩy nhanh xuất khẩu, chủ động về nhập khẩu, kiềm chế và thu hẹp dần nhập siêu... Phấn đấu đưa tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm tới lên hơn hai lần 5 năm trước;(2) Thực hiện tốt đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước; chủ động, tích cực hội nhập kinh tế sâu hơn và đầy đủ hơn với khu vực và thế giới... Chuẩn bị tốt các điều kiện để bảo đảm thực hiện các cam kết khi nước ta gia nhập WTO.”



tải về 278.94 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương