BỘ CÔng thưƠng dự thảO 25/4/2016 CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam


II. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VÀ ĐỊNH HƯỚNG XÂY DỰNG LUẬT QUẢN LÝ NGOẠI THƯƠNG



tải về 278.94 Kb.
trang3/4
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích278.94 Kb.
#30031
1   2   3   4

II. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VÀ ĐỊNH HƯỚNG XÂY DỰNG LUẬT QUẢN LÝ NGOẠI THƯƠNG

2.1. Quan điểm chỉ đạo việc xây dựng Luật Quản lý ngoại thương

2.1.1. Quan điểm chỉ đạo, định hướng của Đảng về chính sách ngoại thương kể từ Đại hội Đảng lần thứ VI đến nay

Kể từ nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ VI, quan điểm, định hướng của Đảng đã thể hiện rõ “xuất khẩu là mũi nhọn có ý nghĩa quyết định đối với nhiều mục tiêu kinh tế trong 5 năm này (1986-1990), đồng thời cũng là khâu chủ yếu của toàn bộ các quan hệ kinh tế đối ngoại8

Tiếp đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991-1995), sau khi tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng VI - Đại hội của Đổi Mới, quan điểm của Đảng về việc phát triển ngoại thương trong 10 năm tiếp theo (1991 – 2000) được Đại hội thông qua tiếp tục là “Phát huy lợi thế tương đối, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá, đáp ứng tốt nhất nhu cầu của sản xuất và đời sống, hướng mạnh về xuất khẩu, thay thế nhập khẩu những mặt hàng trong nước sản xuất có hiệu quả.”

Đại hội đại biểu lần thứ IX đã khẳng định phương hướng phát triển của ngành ngoại thương trong 10 năm tiếp theo (2001-2010) “Tạo một số thị trường và bạn hàng lâu dài về những mặt hàng xuất, nhập khẩu chủ yếu, giảm xuất, nhập qua thị trường trung gian. Thực hiện nhất quán các chính sách khuyến khích xuất khẩu, bao gồm cả việc bảo hiểm về giá cho hàng xuất khẩu, điều tiết tỷ giá hối đoái hợp lý, có lợi cho xuất khẩu” và Tận dụng điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, chủ động và khẩn trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới công nghệ và quản lý, phát huy lợi thế so sánh, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, của sản phẩm và dịch vụ Việt Nam tại thị trường trong nước và trên thế giới. Đẩy nhanh xuất khẩu, chủ động về nhập khẩu, kiềm chế và thu hẹp dần nhập siêu...”

Luật Thương mại năm 1997 và Luật Thương mại mới năm 2005 dựa trên nền tảng tư tưởng của Cương lĩnh 1991 và nền tảng pháp lý của Hiến pháp 1992. Đến nay, Cương lĩnh đã được bổ sung, phát triển năm 2011 và Hiến pháp đã được thay thế bằng Hiến pháp 2013.

Cho đến Đại hội đại biểu lần thứ XI của Đảng, các Văn kiện của Đảng đã xác lập hai định hướng lớn như sau:



Một là, phát triển thị trường hàng hóa, dịch vụ theo hướng tiếp tục đẩy mạnh tự do hóa thương mại và đầu tư9;

Hai là, tăng nhanh xuất khẩu, giảm nhập siêu cả quy mô và tỉ trọng, phấn đấu cân bằng xuất nhập khẩu.10

Như vậy, việc xây dựng Luật Quản lý ngoại thương là cần thiết nhằm thực hiện đường lối, chính sách của Đảng đối với chính sách ngoại thương.



2.1.2. Định hướng của Chính phủ trong chính sách ngoại thương thời kỳ 2011- 2020

Thực hiện đường lối xuyên suốt của Đảng trong quản lý, điều hành chính sách ngoại thương, Chính phủ đã phê duyệt 02 Chiến lược tổng thể liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hóa cũng như bảo hộ sản xuất công nghiệp trong nước. Theo đó, các quan điểm chính sách chủ yếu của các Chiến lược này bao gồm:



a) Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011-2020 định hướng 2030 được phê duyệt theo Quyết định số 2471/QĐ-TTg ngày 28/12/2012:

- Phát triển sản xuất để tăng nhanh xuất khẩu, đồng thời đáp ứng nhu cầu trong nước; khai thác tốt lợi thế so sánh của nền kinh tế, nâng cao hiệu quả, năng lực cạnh tranh xuất nhập khẩu và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giải quyết việc làm và tiến tới cân bằng cán cân thương mại.

- Xây dựng, củng cố các đối tác hợp tác chiến lược để phát triển thị trường bền vững; kết hợp hài hòa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài của quốc gia, lợi ích kinh tế và lợi ích chính trị - đối ngoại, chủ động và độc lập tự chủ trong hội nhập kinh tế quốc tế.

- Đa dạng hóa thị trường xuất nhập khẩu. Tích cực và chủ động tham gia vào mạng lưới sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu; chú trọng xây dựng và phát triển hàng hóa có giá trị gia tăng cao, có thương hiệu trên thị trường trong và ngoài nước.



b) Chiến lược tổng thể và bảo hộ sản xuất công nghiệp trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế, quy định của WTO giai đoạn đến 2020 được phê duyệt theo Quyết định số 160/QĐ-TTg ngày 04/12/2008:

- Các biện pháp bảo hộ sản xuất phải hợp lý, có điều kiện và có lộ trình cắt giảm phù hợp với các cam kết của Việt Nam khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và các cam kết khác của Việt Nam.

- Các biện pháp bảo hộ của Nhà nước phải hướng tới thúc đẩy và tạo lập lợi thế cạnh tranh cho các ngành công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn nói riêng và cho ngành công nghiệp Việt Nam nói chung trên thị trường trong nước và quốc tế.

- Các biện pháp bảo hộ phải được thực hiện thống nhất bình đẳng đối với mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.

- Gắn bảo hộ sản xuất trong nước với việc tiếp tục điều chỉnh chức năng quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Như vậy, việc xây dựng và ban hành Luật Quản lý ngoại thương là phù hợp với quan điểm, định hướng và các giải pháp chính sách lớn của Chính phủ trong quản lý, điều hành hoạt động ngoại thương trong tình hình mới nhằm thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng.



2.2. Định hướng cơ bản xây dựng Luật Quản lý ngoại thương

2.2.1. Thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về quản lý, phát triển hoạt động ngoại thương

Luật Thương mại và nhiều đạo luật có liên quan đến hoạt động quản lý ngoại thương cùng hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành đã phản ánh được chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn vừa qua đối với hoạt động ngoại thương. Theo đó, hệ thống pháp luật về ngoại thương về cơ bản đã phục vụ tốt công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam thời gian qua, đồng thời góp phần thực hiện chủ trương của Đảng về đẩy nhanh xuất khẩu, chủ động về nhập khẩu, chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu, hạn chế nhập siêu…11. Do đó, Luật Quản lý ngoại thương trước tiên phải được xây dựng trên nền tảng chính sách ngoại thương tương đối ổn định của chúng ta trong thời gian qua, đồng thời phải phản ánh được những thay đổi trong chủ trương, chính sách ngoại thương của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ mới.



2.2.2. Phải là đạo luật chủ đạo điều chỉnh hoạt động quản lý ngoại thương thông qua việc đảm bảo quy định bao quát tất cả biện pháp quản lý ngoại thương; quy định cơ chế mở cho việc sử dụng, ban hành các biện pháp quản lý ngoại thương mới trong tương lai để đảm bảo tính linh hoạt trong việc xây dựng chiến lược ngoại thương và ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực này

Với mong muốn khắc phục tình trạng tản mát, thiếu thống nhất hiện nay của hệ thống pháp luật ngoại thương, Luật Quản lý ngoại thương phải được xây dựng với định hướng trở thành một đạo luật chủ đạo trong quản lý điều hành hoạt động ngoại thương, đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật ngoại thương. Các biện pháp quản lý ngoại thương hiện hành phải được thể hiện trong Dự án Luật, các biện pháp quản lý ngoại thương mới cũng cần được tính đến và được quy định hợp lý. Ngoài ra, tính biến động nhanh chóng của hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu trên thị trường đặt ra yêu cầu về tính linh hoạt trong công tác quản lý ngoại thương, điều này đồng nghĩa Luật Quản lý ngoại thương phải có các quy định mang tính chất mở làm cơ sở pháp lý cho việc ban hành các biện pháp, chính sách quản lý ngoại thường trong từng giai đoạn cụ thể. Theo đó, Luật Quản lý ngoại thương phải thiết kế các quy định nhằm tạo hành lang pháp lý cho Chính phủ, các Bộ ngành liên quan ban hành các quy phạm pháp luật liên quan đến các biện pháp quản lý ngoại thương mới tránh tình trạng thiếu cơ sở pháp lý cho việc ban hành các văn bản quy phạm dưới luật của Chính phủ và các bộ, ngành trong thời gian qua.



2.2.3. Cân bằng lợi ích giữa hoạt động quản lý nhà nước về ngoại thương của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và khuyến khích, tạo điều kiện cho sự phát triển hoạt động ngoại thương của thương nhân

Về cơ bản, bất kỳ đạo luật nào cũng nên và phải được xây dựng trên nguyên tắc cân bằng lợi ích giữa các chủ thể. Theo đó các nhóm lợi ích khác nhau cần được tính đến trong quá trình xây dựng Dự án Luật. Việc xây dựng Luật Quản lý ngoại thương vì thế cũng phải tuân thủ nguyên tắc này. Một mặt, Dự án Luật sẽ nhấn mạnh nhu cầu, mục đích quản lý hoạt động ngoại thương của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng mặt khác cũng rất cần tính đến mục tiêu tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu của thương nhân.



2.2.4. Tập trung hoàn thiện cơ chế điều hành, quản lý hoạt động ngoại thương thông qua việc phân định rõ thẩm quyền của các cơ quan có liên quan

Như đã trình bày ở phần về sự cần thiết ban hành, một trong các lý do của sự kém hiệu quả hiện nay trong hoạt động quản lý ngoại thương xuất phát từ bất cập trong phối hợp điều hành xuất khẩu, nhập khẩu của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Do đó, Dự án Luật Quản lý ngoại thương cần được định hướng có sự phân định rõ ràng về trách nhiệm quản lý nhà nước đối với hoạt động ngoại thương, xây dựng các phương thức phối hợp hiệu quả, thống nhất giữa cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp về ngoại thương và cơ quan quản lý nhà nước liên quan đến ngoại thương trong điều hảnh, quản lý hoạt động ngoại thương. Có thể nói việc sử dụng các biện pháp ngoại thương do Dự thảo Luật quy định có hiệu quả hay không phụ thuộc rất lớn vào sự điều phối, phối hợp giữa các cơ quan. Với tư cách là cơ quan tham gia hoạch định chính sách, góp phần xây dựng và trực tiếp chịu trách nhiệm thực thi pháp luật ngoại thương, các cơ quan hành pháp (Chính phủ, các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân các cấp) đóng vai trò rất quan trọng trong việc triển khai thực thi chính sách, pháp luật về ngoại thương. Bộ Công Thương với tư cách là cơ quan chịu trách nhiệm trước Chính phủ về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu phải có thẩm quyền tập trung hơn trong điều phối hoạt động này.



2.2.5. Hệ thống hóa, pháp điển hóa đến mức có thể các quy định pháp luật về quản lý hoạt động ngoại thương hiện hành, nội luật hóa các điều ước quốc tế trong chừng mực nhất định

Với tư cách là một đạo luật chủ đạo quy định về các biện pháp quản lý ngoại thương, Luật Quản lý ngoại thương cần phải: (1) hệ thống hóa được các quy định chủ yếu về quản lý hoạt động ngoại thương hiện đang tồn tại ở các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau; (2) thực hiện công tác pháp điển hóa - có chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện các quy định pháp luật hiện hành đảm bảo phù hợp hơn và (3) nội luật hóa đến mức có thể các điều ước quốc tế trong lĩnh vực kinh tế mà Việt Nam là thành viên. Với định hướng soạn thảo này, Luật Quản lý ngoại thương khi ra đời sẽ là văn bản pháp lý điều chỉnh bao trùm lĩnh vực quản lý hoạt đông ngoại thương, tạo tiền đề cho việc xây dựng một hệ thống pháp luật ngoại thương thống nhất, hiệu lực thực thi cao.



III. DỰ KIẾN CÁC NỘI DUNG CHÍNH CỦA LUẬT QUẢN LÝ NGOẠI THƯƠNG

Dự thảo Luật được xây dựng theo hướng một đạo luật công điều chỉnh công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động ngoại thương hàng hóa bao gồm các biện pháp hành chính; các biện pháp kỹ thuật, kiểm dịch; các biện pháp phòng vệ thương mại; kiểm soát khẩn cấp trong hoạt động ngoại thương; các biện pháp hỗ trợ hoạt động ngoại thương; giải quyết tranh chấp về ngoại thương.

Dự thảo Luật được kết cấu nhằm tối đa tránh trùng lặp, đảm bảo trật tự, lôgíc như sau: Định hướng mô hình, nguyên tắc chung trong quản lý nhà nước về ngoại thương; công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động ngoại thương của thương nhân; hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước trong các trường hợp đặc biệt (trường hợp khẩn cấp, điều tra về phòng vệ thương mại, áp dụng các biện pháp kỹ thuật, vệ sinh dịch tễ); hoạt động hỗ trợ ngoại thương của các cơ quan nhà nước.

Trên cơ sở đó, Dự thảo Luật dự kiến gồm ... Chương với … Điều, cụ thể như sau:

- Chương I – Những quy định chung.

- Chương II – Các biện pháp hành chính.

- Chương III – Các biện pháp kỹ thuật, kiểm dịch.

- Chương IV – Các biện pháp phòng vệ thương mại.

- Chương V – Kiểm soát khẩn cấp trong hoạt động ngoại thương.

- Chương VI – Các biện pháp hỗ trợ hoạt động ngoại thương.

- Chương VII – Giải quyết tranh chấp về ngoại thương.

- Chương VIII – Giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm.

- Chương IX – Điều khoản thi hành.

Các nội dung cụ thể của từng Chương như sau:



    1. Chương I - Những quy định chung (từ Điều đến Điều )

Chương này quy định về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, giải thích từ ngữ, áp dụng Luật, nguyên tắc quản lý nhà nước về ngoại thương, quyền kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu và trách nhiệm quản lý nhà nước về ngoại thương. Trong đó, các nội dung có sự thay đổi căn bản đối với quy định của pháp luật hiện hành như sau:

3.1.1. Về phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng (Điều 1)

Do Dự án Luật Quản lý ngoại thương được xây dựng theo mô hình luật công nên dự thảo Luật điều chỉnh chủ yếu về công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực ngoại thương bao gồm các biện pháp quản lý hoạt động ngoại thương (các biện pháp hành chính, các biện pháp kỹ thuật, kiểm dịch, các biện pháp phòng vệ thương mại, kiểm soát khẩn cấp trong hoạt động ngoại thương), các biện pháp hỗ trợ hoạt động ngoại thương và giải quyết tranh chấp trong hoạt động ngoại thương. Theo đó, Dự thảo Luật không điều chỉnh các hoạt động cụ thể của thương nhân và giữa các thương nhân với nhau. Bên cạnh đó, Dự thảo Luật chỉ điều chỉnh đối tượng là hàng hóa, không điều chỉnh đối tượng dịch vụ.

Xuất phát từ phạm vi điều chỉnh của một đạo luật công nêu trên, đối tượng áp dụng của Luật chính là các cơ quan quản lý nhà nước về ngoại thương và các thương nhân tham gia hoạt động ngoại thương (điều này khác cơ bản với Luật Thương mại 2005 trong đó đối tượng áp dụng chỉ là thương nhân).

3.1.2. Về giải thích từ ngữ (Điều 2)

Điều 2 Dự thảo Luật đưa ra giải thích đối với các thuật ngữ được dùng trong nội dung của Dự thảo, trong đó làm rõ một số khái niệm có liên quan đến phạm vi điều chỉnh của Luật như “Hoạt động ngoại thương”, “Khu hải quan riêng”, “Độc quyền nhà nước trong hoạt động ngoại thương”, “Thương nhân nước ngoài không có hiện diện tại Việt Nam”.



3.1.3. Về nguyên tắc áp dụng Luật (Điều 4)

Do hoạt động ngoại thương được điều tiết bởi một lượng không nhỏ pháp luật chuyên ngành, Dự thảo Luật đã đưa ra nguyên tắc áp dụng pháp luật nhằm loại bỏ những mâu thuẫn, vướng mắc trong quá trình thực thi pháp luật của các cơ quan quản lý nhà nước cũng như thương nhân.

Đối với các quy định về thuế, do Quốc hội, Chính phủ đã ban hành một hệ thống các văn bản rất chặt chẽ, chi tiết liên quan đến lĩnh vực thuế (trong đó có 01 Luật riêng về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu) nên nội dung quy định của pháp luật về thuế được thực hiện theo hệ thống pháp luật đó. Tuy nhiên, riêng đối với việc áp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu như một trong những biện pháp phòng vệ thương mại phải đồng thời thực hiện nghĩa vụ về thuế theo quy định của Chương IV (Các biện pháp phòng vệ thương mại) của Luật này.

Đối với quy định về thủ tục hải quan, Quốc hội đã ban hành Luật Hải quan năm 2014 và Chính phủ, Bộ Tài chính đã ban hành các văn bản quy định chi tiết thi hành. Do liên quan đến nghiệp vụ của cơ quan Hải quan, dự thảo Luật cũng đã đưa ra nguyên tắc ưu tiên áp dụng pháp luật của hải quan.

Đối với hoạt động ngoại thương và chính sách ngoại thương với các đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt (đặc khu), Dự thảo Luật cũng có quy định loại trừ việc áp dụng, theo đó các hoạt động và chính sách ngoại thương đối với các đơn vị này được thực hiện theo quy định riêng.

Cuối cùng, Dự thảo Luật cũng xác định nguyên tắc quan trọng liên quan đến áp dụng Luật này và các Luật chuyên ngành khác trong quản lý hoạt động ngoại thương cũng như các điều ước quốc tế có liên quan. Theo đó, Dự thảo Luật quy định trường hợp có sự khác nhau giữa Luật này và luật khác về hàng hóa cấm, hạn chế xuất khẩu, nhập khẩu thì áp dụng nguyên tắc, quy định của Luật này; trường hợp có quy định khác nhau giữa Luật này và luật khác về các biện pháp kỹ thuật, kiểm dịch thì áp dụng quy định của luật đó. Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của Luật này thì áp dụng theo quy định của điều ước quốc tế đó.



3.1.4. Về nguyên tắc quản lý nhà nước về ngoại thương (Điều 5)

Căn cứ quan điểm chỉ đạo, chủ trương, định hướng của Đảng, Chính phủ cũng như để phù hợp với xu thế hội nhập sâu rộng của nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế khu vực và thế giới, dự án Luật đã làm rõ các nguyên tắc sau: (1) Đảm bảo hoạt động ngoại thương tuân thủ các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; (2) Góp phần thúc đẩy sản xuất trong nước, phát triển xuất khẩu; (3) Đảm bảo minh bạch, công khai, bình đẳng; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, thương nhân thuộc các thành phần kinh tế; (4) Đảm bảo thực hiện đầy đủ các nguyên tắc đối xử tối huệ quốc, đối xử quốc gia trong hoạt động ngoại thương theo các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; (5) Nhà nước chỉ thực hiện độc quyền Nhà nước trong hoạt động ngoại thương theo quy định của pháp luật và các điều ước quốc tế mà điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; (6) Đảm bảo đơn giản hóa thủ tục hành chính góp phần cải thiện môi trường kinh doanh.



3.1.5. Về quyền kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu (Điều 6)

Dự thảo Luật dành một điều để quy định về quyền kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu của thương nhân như một lời tuyên ngôn về quyền tự do kinh doanh đã được Hiến pháp ghi nhận, trên cơ sở phù hợp với các cam kết quốc tế.

Theo đó, thương nhân Việt Nam (không có vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài) được kinh doanh hoạt động ngoại thương và các hoạt động có liên quan khác không phụ thuộc vào ngành nghề đăng ký kinh doanh, trừ hàng hóa thuộc Danh mục hàng hóa cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu quy định tại Luật này và hàng hóa tạm ngừng xuất khẩu, tạm ngừng nhập khẩu.

Đối với thương nhân có vốn đầu tư nước ngoài, công ty và chi nhánh công ty nước ngoài tại Việt Nam, thương nhân nước ngoài không có hiện diện tại Việt Nam thực hiện quyền xuất khẩu, quyền nhập khẩu theo quy định của Luật này, các luật khác có liên quan và theo các cam kết của Việt Nam trong các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.



3.1.6. Trách nhiệm quản lý nhà nước về ngoại thương (Điều 7)

Điều này quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về ngoại thương, theo đó Luật giao Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về ngoại thương và Bộ Công Thương là cơ quan đầu mối của Chính phủ trong chủ trì điều phối các công tác quản lý nhà nước về ngoại thương. Cụ thể:



a) Bộ Công Thương:

- Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, ban hành chiến lược, kế hoạch, quy hoạch, chính sách phát triển ngoại thương, phát triển thị trường các khu vực và thế giới, hội nhập kinh tế trong từng thời kỳ:

Đây là nhiệm vụ quan trọng của Đảng, Nhà nước trong ban hành các Chiến lược nhằm phát triển hoạt động ngoại thương, hội nhập kinh tế quốc tế một cách chủ động, có hiệu quả.

Trong thời gian vừa qua, Bộ Công Thương đã là cơ quan trình Thủ tướng Chính phủ ban hành các Chiến lược này, cụ thể là Quyết định số 2471/QĐ-TTg ngày 28 tháng 12 năm 2011 phê duyệt Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011 - 2020, định hướng đến năm 2030; Quyết định số 1467/QĐ-TTg ngày 24 tháng 8 năm 2015 phê duyệt Đề án phát triển các thị trường khu vực thời kỳ 2015 - 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Quyết định số 1233/QĐ-TTg ngày 03 tháng 8 năm 2015 phê duyệt Đề án quản lý nhập khẩu đến năm 2020 phù hợp với cam kết quốc tế,…

- Ban hành hoặc trình các cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về quản lý hoạt động ngoại thương; Chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương tổ chức thực hiện các biện pháp quản lý ngoại thương; Hướng dẫn, phổ biến, tổ chức thực hiện, theo dõi, kiểm tra, đánh giá việc thực hiện các Chiến lược, kế hoạch, quy hoạch, văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, hỗ trợ phát triển ngoại thương; Tổng hợp, đánh giá, báo cáo tình hình quản lý hoạt động ngoại thương của Việt Nam; Quản lý, phát triển các tổ chức xúc tiến thương mại của Việt Nam tại nước ngoài và các tổ chức tương đương của nước ngoài tại Việt Nam; Chủ trì, phối hợp trong công tác giải quyết tranh chấp về ngoại thương:

Đây là các nhiệm vụ mà Luật giao cho Bộ Công Thương nhằm triển khai các hoạt động thi hành pháp luật về ngoại thương để quản lý có hiệu quả hoạt động ngoại thương.



- Làm đầu mối giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong tham gia đàm phán, ký kết, điều phối việc thực hiện các Điều ước quốc tế trong lĩnh vực ngoại thương:

Trong thời gian vừa qua, sau khi gia nhập thành công vào Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Việt Nam đã và đang tích cực tham gia đàm phán thành công nhiều Hiệp định thương mại tự do quan trọng như Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), FTA với Liên minh châu Âu (EU), với Liên minh thuế quan Nga - Bê-la-rút - Ka-dắc-xtan, với Khối Thương mại tự do châu Âu (EFTA) gồm các nước Thụy Sĩ, Na-uy, Lích-tân-xten và Ai-xơ-len, FTA với Hàn Quốc và FTA giữa khối ASEAN với Hồng Kông, Trung Quốc.

Việc đàm phán, ký kết các Hiệp định nói trên có mục tiêu rõ ràng nhằm thúc đẩy, phát triển, mở rộng thị trường xuất khẩu cho hàng hóa Việt Nam đồng thời nhằm mở ra các cơ hội nhập khẩu công nghệ, máy móc, thiết bị có hàm lượng công nghệ cao, giúp tăng sức cạnh tranh, năng suất lao động cho doanh nghiệp Việt Nam. Trong thời gian tới, thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị, định hướng của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Việt Nam sẽ tiếp tục nghiên cứu, đàm phán, ký kết các điều ước quốc tế khác nhằm tiếp tục hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu. Đây là một nhiệm vụ quan trọng trong tổng thể chính sách, pháp luật ngoại thương của Việt Nam.

Bên cạnh đó, sau khi hoàn thành ký kết, gia nhập các Hiệp định thương mại tự do, nhằm tận dụng tối đa thành quả của công cuộc đàm phán, việc tăng cường chuẩn bị, thực thi các cam kết trong khuôn khổ các Hiệp định trên là vô cùng quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả kinh tế - xã hội của đất nước. Do vậy, việc điều phối thực thi một cách có hệ thống, đồng bộ, kịp thời các Hiệp định là một nhiệm vụ không kém phần quan trọng nhằm tạo nền tảng bền vững, thông suốt cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam tận dụng tối đa những kết quả, ưu đãi mà các Hiệp định mang lại.



b) Các Bộ, ngành, cơ quan trung ương và địa phương:

Các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình có trách nhiệm chủ trì hoặc phối hợp thực hiện các nội dung quản lý nhà nước về ngoại thương.



    1. Chương II – Các biện pháp hành chính (từ Điều đến Điều )

Đây là nội dung rất quan trọng liên quan đến chính sách quản lý hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu của Việt Nam. Dự thảo Luật quy định rõ các biện pháp áp dụng trong quản lý hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu của Việt Nam. Các biện pháp này là việc thể chế hóa yêu cầu tại Quyết định 2471/QĐ-TTg ngày 28/12/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011-2020, định hướng đến năm 2030 và Quyết định số 1233/QĐ-TTg ngày 03/8/2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án quản lý nhập khẩu đến năm 2020 phù hợp với cam kết quốc tế. Cụ thể các biện pháp như sau:

3.2.1. Biện pháp cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu, tạm ngừng xuất khẩu, tạm ngừng nhập khẩu (Mục 1)

Đối với biện pháp cấm quy định nguyên tắc xác định Danh mục hàng hóa cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu, theo đó việc cấm xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa chỉ áp dụng đối với các trường hợp liên quan đến hàng hóa an ninh, quốc phòng chưa được phép, ảnh hưởng thuần phong mỹ tục, môi trường, sức khỏe cộng đồng... Các nguyên tắc này về cơ bản phù hợp với quy định của WTO và chính sách quản lý xuất nhập khẩu hiện nay. Ngoài ra, Dự thảo Luật cũng quy định rõ một số trường hợp ngoại lệ đối với hàng hóa cấm xuất nhập khẩu như vì mục đích phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, y tế, sản xuất dược phẩm, bảo vệ quốc phòng, an ninh; xuất nhập khẩu đối với các khu hải quan riêng. Hơn nữa, để đáp ứng nguyên tắc công khai, minh bạch của quy định về quản lý ngoại thương, Dự thảo quy định rõ Danh mục phải được cụ thể hóa theo “Hệ thống hài hòa mô tả và mã hóa hàng hóa” (HS).

Về các hàng hóa cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu, hiện Dự thảo Luật đang quy định cụ thể Danh mục theo Phụ lục của Luật. Quy định này sẽ đảm bảo tính công khai, minh bạch và tính ổn định của pháp luật. Việc quy định rõ trong Dự thảo Luật Danh mục hàng hóa cấm xuất khẩu, nhập khẩu (hoặc cấm kinh doanh nói chung) là một xu hướng, yêu cầu quan trọng trong xây dựng Luật, Pháp lệnh của Quốc hội do đây là yêu cầu của Hiến pháp. Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp quy định “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.” Một số Luật được Quốc hội ban hành gần đây như Luật Đầu tư, Luật Phí, lệ phí... đều được quy định theo hướng này.

Bên cạnh đó, Dự thảo cũng đã tính đến việc đảm bảo sự linh hoạt trong điều hành khi có quy định về việc tạm ngừng xuất khẩu, nhập khẩu có thời hạn. Theo đó, thẩm quyền quy định hàng hóa thuộc diện tạm ngừng có thời hạn được giao cho Thủ tướng Chính phủ.



3.2.2. Biện pháp hạn chế xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu (Mục 2)

Dự thảo Luật quy định chi tiết các biện pháp hạn chế về số lượng hoặc trị giá hàng hóa, thương nhân và cửa khẩu đối với một số loại hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, biện pháp này, bao gồm thực hịện chế độ hạn ngạch, hạn ngạch thuế quan, quản lý cửa khẩu, chỉ định thương nhân xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa.



3.2.3. Biện pháp quản lý theo giấy phép, điều kiện (Mục 3)

Đối với biện pháp quản lý theo giấy phép, điều kiện, Luật quy định biện pháp này gồm có (1) Giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu và (2) Biện pháp quản lý theo điều kiện. Dự thảo đang quy định việc cấp giấy phép phải đảm bảo nguyên tắc công khai, minh bạch, tiết kiệm thời gian, chi phí của cơ quản lý nhà nước và của thương nhân. Việc cấp phép phải tuân thủ trình tự, thủ tục, thẩm quyền cấp giấy phép theo quy định của Thủ tướng Chính phủ. Về thẩm quyền, Luật giao Chính phủ quy định cụ thể Danh mục hàng hóa, phương thức quản lý và phân công quản lý. Hàng hóa thuộc các Danh mục này phải được công khai theo mã số HS. Trên cơ sở đó, các Bộ, cơ quang ngang bộ công bố điều kiện, trình tự cấp phép xuất khẩu, nhập khẩu.



3.2.4. Biện pháp Chứng nhận xuất xứ hàng hóa và Chứng nhận lưu hành tự do (Mục 4 và Mục 5)

Bên cạnh các biện pháp quản lý nêu trên, Luật còn quy định về biện pháp chứng nhận xuất xứ hàng hóa và chứng nhận lưu hành tự do. Tuy nhiên, đây không phải là những biện pháp bắt buộc với thương nhân hoạt động xuất nhập khẩu nói chung mà thực hiện theo yêu cầu của thương nhân để được hưởng ưu đãi thuế hoặc theo yêu cầu của nước xuất khẩu, nhập khẩu.



3.2.4. Biện pháp quản lý hoạt động ngoại thương khác (Mục 6)

Luật quy định các biện pháp quản lý hàng hóa tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập; chuyển khẩu; quá cảnh; đại lý mua bán hàng hóa cho thương nhân nước ngoài; ủy thác và nhận ủy thác xuất khẩu, nhập khẩu; gia công hàng hóa cho thương nhân nước ngoài và đặt gia công hàng hóa ở nước ngoài. Theo đó, Luật đang quy định nguyên tắc, thẩm quyền quản lý các hoạt động này. Chi tiết các điều kiện, trình tự, thủ tục cụ thể sẽ được quy định tại các văn bản dưới luật.

Bên cạnh đó, Luật còn quy định về quản lý hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu không vì mục đích thương mại. Theo đó, Luật xác định các trường hợp xuất khẩu, nhập khẩu không vì mục đích thương mại cũng như thẩm quyền quản lý đối với hoạt động này.

3.2.5. Quản lý hoạt động ngoại thương với các nước có chung biên giới (Mục 7)

Nội dung quản lý bao gồm việc quy định các biện pháp quản lý đặc thù (bao gồm cả ưu đãi) đối với cư dân biên giới, quy định hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu của thương nhân theo các hình thức không theo thông lệ quốc tế (thực hiện theo Điều XXIV của GATT) và của cư dân biên giới. Quy định này tạo cơ sở pháp lý quan trọng để hoàn thiện chính sách, pháp luật về thương mại biên giới theo đề nghị của nhiều cơ quan, địa phương, hiệp hội, doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, Luật còn quy định về quản lý hoạt động thương mại biên giới tại cửa khẩu biên giới đất liền; chính sách quản lý phát triển hoạt động hỗ trợ thương mại tại khu vực cửa khẩu biên giới đất liền.

3.2.6. Quản lý hàng hóa đối với khu vực hải quan riêng (Mục 8)

Nội dung quản lý bao gồm việc phân định rõ quan hệ xuất khẩu, nhập khẩu giữa nội địa với các khu vực hải quan riêng, giữa các khu vực hải quan riêng với nhau cũng như giữa khu vực hải quan riêng với bên ngoài lãnh thổ Việt Nam. Bên cạnh đó, việc phân định như vậy sẽ đi kèm với chính sách mặt hàng, chính sách thuế, chính sách quản lý thương nhân (quyền, nghĩa vụ),… Việc tách bạch chính sách xuất nhập khẩu hàng hóa giữa các khu để tạo điều kiện cho việc Nhà nước có những chính sách ưu đãi hơn, thu hút đầu tư cũng như phân vùng một số hoạt động đặc thù (gia công xuất khẩu, chế xuất...) cho các khu vực này. Cụ thể Dự thảo Luật quy định theo hướng như sau:

- Áp dụng các biện pháp quản lý ngoại thương đối với hàng hóa được đưa từ khu hải quan riêng ra lãnh thổ nước ngoài như đối với hàng hóa được đưa từ nội địa ra lãnh thổ nước ngoài.

- Hàng hóa đưa từ nước ngoài vào khu vực hải quan riêng nhằm mục đích sản xuất, gia công xuất khẩu không phải áp dụng các biện pháp quản lý ngoại thương, trừ biện pháp cấm, tạm ngừng nhập khẩu và các biện pháp kiểm dịch. Hàng hóa thuộc diện không áp dụng các biện pháp quản lý ngoại thương thì được miễn các thủ tục hành chính này, nhưng sẽ phải chịu sự giám sát của cơ quan hải quan ở cửa khẩu ra (cổng B) với nội địa. Như vậy là vừa đảm bảo quản lý chặt chẽ với hàng hóa nhập khẩu vào nội địa nhưng thông thoáng, giảm thiểu thủ tục hành chính đối với hàng hóa nhập khẩu vào khu.

- Áp dụng các biện pháp quản lý ngoại thương đối với hàng hóa đưa từ khu hải quan riêng vào nội địa như đối với hàng hóa đưa từ nước ngoài vào lãnh thổ Việt Nam. Không áp dụng các biện pháp quản lý ngoại thương đối với hàng hóa đưa từ nội địa vào khu vực hải quan riêng nhằm mục đích sản xuất, tiêu dùng, gia công xuất khẩu.

- Không áp dụng các biện pháp quản lý ngoại thương đối với hàng hóa mua bán, vận chuyển giữa các khu hải quan riêng trong lãnh thổ Việt Nam.

- Toàn bộ quá trình trên sẽ được thực hiện dưới sự giám sát chặt chẽ của cơ quan Hải quan.

Ngoài ra, Luật quy định trong một số trường hợp đặc biệt, Thủ tướng Chính phủ cho phép áp dụng hoặc không áp dụng một hoặc một số biện pháp quản lý ngoại thương đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu tại các khu này.




    1. tải về 278.94 Kb.

      Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương