Amiăng trắng chrysotile asbestos / III


Kết luận của IARC về ung thư phổi



tải về 0.55 Mb.
trang4/5
Chuyển đổi dữ liệu14.08.2016
Kích0.55 Mb.
#18868
1   2   3   4   5

Kết luận của IARC về ung thư phổi
Về vấn đề ung thư phổi, IARC kết luận rằng có đủ bằng chứng về chất gây ung thư cho con người của tất cả các loại amiăng, kể cả amiăng trắng. Đây là mức độ mạnh mẽ nhất của IARC để mô tả mức độ mạnh của bằng chứng (1).

Những nghiên cứu chính mới
Hodgson & Darnton (65) cập nhật phân tích tổng hợp của mình về các nguy cơ ung thư phổi và ung thư trung biểu mô do phơi nhiễm với các loại amiăng khác nhau sau công bố số liệu về Nam Carolina, Hoa Kỳ, công nhân dệt sợi amiăng trắng và thông báo rằng nguyên bản “ước tính tốt nhất” của họ là 0.1% trên sợi-năm/mL, thực tế hoàn toàn giống với ước tính từ thuần tập Bắc Carolina (RR: 1.102 trên 100 sợi-năm/mL).
Trong một nghiên cứu thuần tập ở một mỏ amiăng trắng lớn nhất tại Thanh Hải, Trung Quốc, tất cả các công nhân nam (n = 1539) được tuyển vào đầu năm 1981 được theo dõi đến cuối năm 2006. Tỷ lệ tử vong do những nguyên nhân khác nhau được so sánh với tỷ lệ toàn quốc. Sử dụng một phương pháp với độ nhạy là 0.001%, không có amphiboles được phát hiện trong quặng. Phơi nhiễm sợi (được ước tính từ đo lường trọng lực bụi năm 2006) là 2.9–63.8 sợi/ mL. SMR cho ung thư phổi là 4.71 (95% CI: 3.57–6.21). SMR cho công nhân không hút thuốc lá bị phơi nhiễm với amiăng trắng (thợ mỏ và thợ nghiền) là 1.79 (95% CI: 0.49–6.51), và SMR cho những người liên quan không hút thuốc (dịch vụ phía sau hay làm hành chính) là 1.05 (95% CI: 0.19–5.96). Đối với thợ mỏ/thợ nghiền có hút thuốc, SMR là 5.45 (95% CI: 4.11–7.22), và đối với những người liên quan có hút thuốc là 1.66 (95% CI: 0.71–3.88) (11). Tỷ lệ tử vong do ung thư phổi gia tăng với phơi nhiễm ước tính gia tăng và SMR là 1.10 (95% CI: 0.47–2.28), 4.41 (95% CI: 2.52–7.71), 10.88 (95% CI: 6.70–17.68) và 18.69 (95% CI: 12.10–28.87) trong các nhóm với phơi nhiễm lũy tích ước tính lần lượt là < 20, 20–100, > 100–450 và > 450 sợi-năm/mL (12). Trong một nghiên cứu trùng lặp với tất cả 1932 công nhân tham gia trong ít nhất nửa năm từ 1981 đến 1988 và được theo dõi đến tận năm 2010, SMR về ung thư phổi trong nhóm được coi là phơi nhiễm trực tiếp là 2.50 (95% CI: 1.85–3.24) (10).

Tại nhà máy amiăng trắng lớn nhất ở Trung Quốc, đặt tại Trùng Khánh, nghiên cứu theo dõi 584 công nhân nam trong 37 năm, SMR cho ung thư phổi là 4.08 (95% CI: 3.12–5.33) (14, 15). Nguy cơ gia tăng với phơi nhiễm ước tính và có thấy ở cả người hút thuốc và không hút thuốc. Với nữ (n = 277), toàn bộ thời gian theo dõi là chỉ 19 năm, đã quan sát thấy việc gia tăng không có ý nghĩa thống kê về ung thư phổi (SMR: 1.23; 95% CI: 0.34–4.50). Amiăng trắng được dùng trong nhà máy là từ nguồn duy nhất ở Trung Quốc, và hàm lượng của tremolite là nhỏ hơn 0.001% (66). Một RR của 1.23 (95% CI: 1.10–1.38) trên 100 sợi-năm/mL được ước tính bằng việc áp dụng mô hình tuyến tính logarit với độ trễ 10 năm phơi nhiễm (67).


Năm 2011, Lenters và các đồng sự (18) đã phân tích mối liên quan của chất lượng đánh giá phơi nhiễm với mức độ gây ung thư phổi ước tính của phơi nhiễm amiăng trong một phân tích tổng hợp gồm 18 thuần tập công nghiệp và 1 nghiên cứu bệnh - chứng dựa trên quần thể. Phân tầng với các đặc điểm đánh giá phơi nhiễm cho thấy rằng những nghiên cứu có dữ liệu đánh giá phơi nhiễm tốt, có tương phản lớn hơn trong phơi nhiễm, có độ bao phủ nhiều hơn về lịch sử phơi nhiễm bằng số liệu đo lường phơi nhiễm và lịch sử hoàn thành công việc nhiều hơn thì có các giá trị hệ số nghiêng/dốc cao hơn so với những nghiên cứu không có những đặc tính này. Sự khác biệt trong mức độ gây ung thư đối với amiăng trắng so sánh với amiăng amphibole là ít có bằng chứng hơn khi phân tích tổng hợp bị hạn chế với những nghiên cứu với số liệu phơi nhiễm chất lượng cao hơn (18).
Để đánh giá tốt hơn mức độ gây ung thư của các sợi amiăng ở các mức phơi nhiễm thấp, van der Bij và các cộng tác viên (19) đã áp dụng một hàm chốt trục, ngoài các mô hình tuyến tính liều lượng – phơi nhiễm, với số liệu ung thư phổi và phơi nhiễm từ những nghiên cứu không ít hơn hai ước tính nguy cơ ở các mức độ phơi nhiễm khác nhau. Hàm chốt trục có ưu điểm là những đáp ứng ở những phơi nhiễm cao không khẳng định quá mức các quan hệ liều lượng – đáp ứng ở các mức độ phơi nhiễm thấp. Họ thấy rằng trong phơi nhiễm với chỉ amiăng trắng, các nguy cơ ung thư phổi tương đối với những phơi nhiễm suốt đời với 4 đến 40 sợi-năm/mL lần lượt là 1.006 và 1.064 (hàm chốt trục tự nhiên với điều chỉnh để chặn). Sau khi phân loại với loại sợi, đã thấy khác biệt 3 đến 4 lần về RR giữa sợi amiăng trắng và amphibole cho những phơi nhiễm dưới

40 sợi-năm/mL. Sự khác biệt về hệ số mức độ gây ung thư giữa amiăng trắng và amphiboles vì vậy nhỏ hơn đáng kể so với những phân tích trước đây (60, 63). Trong các phân tích tổng hợp khác, ước tính nguy cơ đối với amiăng trắng là rất khác biệt cho các nghiên cứu ở Nam Carolina, Hoa Kỳ, và Quebec, Canada.


Kumagai và các đồng nghiệp (68) đã đánh giá mối liên quan giữa tỷ lệ tử vong do ung thư phổi và phơi nhiễm amiăng ở vùng gần nhà máy amiăng, dựa trên mô hình hóa khí tượng của thị trấn Hashima, Nhật Bản, nơi có một nhà máy amiăng trắng – amosite hoạt động những năm từ 1943–1991. Loại trừ các cá nhân với phơi nhiễm nghề nghiệp với amiăng hoặc si-lic, nguy cơ ung thư phổi đã tăng vọt trong số người với phơi nhiễm amiăng môi trường được ước tính (SMR: 3.5; 95% CI: 1.52–5.47).


Ung thư trung biểu mô ác tính có liên quan tới phơi nhiễm nghề nghiệp, trong gia đình và môi trường với amiăng
Tỷ lệ mắc mới chuẩn hóa (SIR) đối với ung thư phổi trong thời gian 10 năm ở 15 làng tại Thổ Nhĩ Kỳ với phơi nhiễm amiăng trong môi trường là 1.82 (95% CI: 1.42–2.22) ở nam giới và 2.80 (95% CI: 1.43–2.00) ở phụ nữ, so sánh với 12 làng không có phơi nhiễm amiăng. Phơi nhiễm amiăng suốt đời ước tính là từ 0.19–4.61 sợi-năm/mL; loại sợi hoặc là tremolite hay là một hỗn hợp của tremolite + actinolite + amiăng trắng hoặc anthophyllite + amiăng trắng. Nguy cơ ung thư phổi gia tăng cả ở người không hút thuốc (SIR: 6.87; 95% CI: 3.58–13.20) và hút thuốc (SIR: 12.50; 95% CI: 7.54–20.74) (69).
Ung thư trung biểu mô
Những nghiên cứu trên động vật thí nghiệm
Sau khi tiêm amiăng trắng vào trong màng phổi hoặc màng bụng, cảm ứng ung thư trung biểu mô được quan sát thấy một cách nhất quán ở chuột khi các mẫu bệnh phẩm có chứa số lượng sợi đủ với một độ dài sợi lớn hơn 5 μm. Trong một số nghiên cứu ở chuột, ung thư trung biểu mô cũng được thấy sau khi phơi nhiễm hít vào với amiăng trắng (1).

Những nghiên cứu ở người
Phơi nhiễm nghề nghiệp
Một số lượng vượt trội ung thư trung biểu mô đã được báo cáo trong các nghiên cứu thuần tập với các thợ mỏ và thợ nghiền sàng phơi nhiễm với amiăng trắng (38 ca trong tổng số 6161 ca tử vong) ở Quebec, Canada (3), và ở những công nhân dệt sợi amiăng (3 ca trong tổng số 1961 ca tử vong) ở Nam Carolina, Hoa Kỳ, là những người chủ yếu phơi nhiễm với amiăng trắng được nhập khẩu từ Quebec (6). Tuy nhiên, thực tế là amiăng trắng được khai thác từ mỏ ở Quebec bị nhiễm một lượng nhỏ phần trăm (< 1%) amiăng amphibole (tremolite) làm cho phức tạp việc phiên giải những kết quả này. McDonald và cộng sự (70) thấy rằng ở những vùng khai mỏ tại Quebec, tỷ lệ tử vong do ung thư trung biểu mô cao gấp hơn 3 lần trong số những công nhân ở mỏ tại Thetford Mines, một khu vực có nồng độ tremolite cao hơn. Tuy nhiên, Begin và cộng sự. (71) cho thấy rằng mặc dù các mức tremolite có thể cao hơn gấp 7.5 lần ở Thetford Mines so với Asbestos, tỷ lệ ung thư trung biểu mô ở công nhân mỏ/nghiền sàng amiăng của 2 thành phố này là tương tự nhau. Điều này không ủng hộ cho nhận thức rằng hàm lượng tremolite của quặng là yếu tố chính gây ung thư trung biểu mô cho công nhân amiăng trắng ở Quebec.

Không có ca ung thư trung biểu mô nào trong tổng số 803 ca tử vong được quan sát thấy ở Connecticut, Hoa Kỳ, công nhân nhà máy vật liệu ma sát bị phơi nhiễm với amiăng trắng (52).

Có 2 ca u màng phổi ác tính trong số những công nhân dệt amiăng nhận được đền bù vì bệnh bụi phổi amiăng do công việc gây ra ở Italy; điều này cho thấy nguy cơ lớn (SMR: 22.86; 95% CI: 2.78–82.57). Còn có sự gia tăng lớn hơn về nguy cơ u màng bụng. Phơi nhiễm được mô tả “chủ yếu là amiăng trắng”, nhưng không có số liệu định lượng về việc phơi nhiễm được cung cấp (53).


Trong số 126 ca ung thư trung biểu mô được xác định ở 6 bệnh viện chuyển tuyến tại Nam Phi, có 23 ca đã khai mỏ crocidolite tại Cape; 3 đã khai mỏ amosite; và 3, khai mỏ crocidolite và cả amosite. Không có ca nào chỉ phơi nhiễm với amiăng trắng (72). Cần chú ý là việc khai thác mỏ amiăng trắng bắt đầu muộn hơn và cấp độ sản xuất cũng thấp hơn so với các mỏ crocidolite và amosite tại Nam Phi.
Những ca ung thư trung biểu mô được báo cáo của công nhân mỏ amiăng tại Zimbabwe (73). Amiăng trắng từ Zimbabwe được báo cáo là chứa tremolite ít hơn 3 cấp so với tremolite ở Thetford Mines, Quebec (74).
Những công nhân dệt sợi amiăng ở Bắc Carolina, Hoa Kỳ, chủ yếu bị phơi nhiễm với amiăng trắng nhập từ Quebec, Canada. Một số lượng lớn ung thư trung biểu mô (SMR: 10.92; 95% CI: 2.98–27.96) và ung thư màng phổi (SMR: 12.43; 95% CI: 3.39–31.83) đã được quan sát thấy (7).
Hai ca ung thư trung biểu mô được thấy trong nghiên cứu 1990 ở mỏ amiăng trắng tại Balangero, Italy (54). Tuy nhiên, trong một theo dõi tiếp sau đến 2003, có 4 ca ung thư màng phổi và một ung thư trung biểu mô bụng được xác định, với các SMR là 4.67 (95% CI: 1.27–11.96) ung thư trung biểu mô màng phổi và 3.16 (95% CI: 1.02–7.36) cho tất các loại ung thư trung biểu mô (5).

Phơi nhiễm phi nghề nghiệp
Kể từ khi loạt các ca lớn đầu tiên do Wagner và các đồng nghiệp (75) xem mối liên quan giữa ung thư trung biểu mô ác tính với phơi nhiễm nghề nghiệp, trong gia đình và môi trường với amiăng, có ít nhất 376 ca ung thư trung biểu mô trong đó phơi nhiễm với amiăng được coi là tác nhân gây bệnh được công bố với khoảng 60 báo cáo khoa học (76).

Ba ca ung thư trung biểu mô được xác định từ năm 1980–2006 do việc đăng ký ung thư trung biểu mô ở Piedmont, miền Bắc nước Italy, trong số những nhân viên văn phòng ở mỏ amiăng trắng Balangero, có 3 nhân viên của 1 nhà thầu phụ làm nghề lái xe tải ở mỏ, bốn trong số những người sống cạnh mỏ, một người vợ của thợ mỏ và 5 ca có tiếp xúc với những chất thải chính (4). Không thấy phát hiện có sợi amphiboles, nhưng 0.2–0.5% của sợi silicate, balangeroite, được xác định trong amiăng trắng khai thác ở mỏ tại Balangero (54).


Trong một thuần tập gồm 1780 người vợ (không làm việc ở các xưởng amiăng) của những công nhân xi-măng amiăng tại Casale Monferrato, Italy, nguy cơ tử vong do u màng phổi ác tính gia tăng trong những năm từ 1965–2003 (SMR: 18.00; 95% CI: 11.14–27.52). Amiăng được sử dụng chủ yếu là amiăng trắng, nhưng cũng bao gồm khoảng 10% crocidolite (56, 77). Tỷ lệ nhiễm ung thư trung biểu mô màng phổi được xác định bằng mô học trong những năm 1999–2001 cũng đã gia tăng theo cách dựa trên thời gian phơi nhiễm và ủ bệnh, đạt ở mức SIR là 50.59 (95% CI: 13.78–129.53) trong nhóm với tiềm ẩn ít nhất 40 năm và thời gian phơi nhiễm là ít nhất 20 năm.
Trong một nghiên cứu bệnh – chứng dựa vào quần thể ở một khu vực y tế địa phương tại Casale Monferrato, Italy, mối tương quan giữa phơi nhiễm phi nghề nghiệp với amiăng và ung thư trung biểu mô ác tính được xem xét với 116 ca ung thư trung biểu mô được chẩn đoán những năm 1987–1993 và 330 ca chứng. Tỷ suất chênh (OR) đối với những ca là vợ của công nhân amiăng là 4.5 (95% CI: 1.8–11.1); OR đối với những ca là con cái của công nhân amiăng là 7.4 (95% CI: 1.9–28.1). Nguy cơ có mối tương quan nghịch đảo với khoảng cách giữa nơi cư trú và nhà máy amiăng, đạt mức OR là 27.7 (95% CI: 3.1–247.7) đối với những người đã từng sống dưới 500 m tính từ nhà máy. Năm 1984, nồng độ trung bình của amiăng trong không khí được báo cáo là 0.011 sợi/mL ở gần nhà máy và 0.001 sợi/mL ở nơi dân cư. Trong những nghiên cứu khác nhau, tỷ lệ amphiboles thay đổi từ 3% đến 50% tổng số sợi amiăng (78).
Trong 162 ca nữ tử vong vì ung thư trung biểu mô ở Canada và ở Hoa Kỳ trong những năm từ 1966–1972, 3 ca xảy ra với vợ của công nhân tại các mỏ amiăng trắng ở Quebec (79). Trong 1 nghiên cứu bệnh – chứng trong số những người vợ của công nhân tại các mỏ amiăng trắng ở Quebec, nguy cơ của việc chung sống với thợ mỏ dưới 40 năm có liên quan đến nguy cơ ung thư trung biểu mô là 3.9 (95% CI: 0.4–35); nguy cơ của việc chung sống với thợ mỏ trên 40 năm có liên quan đến nguy cơ là 7.5 (95% CI: 0.8–72). Tất cả các ca bệnh đã sống với một người công nhân ở mỏ tại Thetford Mines, nơi đó quặng amiăng trắng bị nhiễm với tremolite (80).
Tại một vài nước hay khu vực ở những nơi khác nhau trên thế giới – Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, Síp, Corsica, Sicily, Tân Caledonia, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, và California, Hoa Kỳ – có những khu vực có tỷ lệ mắc ung thư trung biểu mô cao, rõ ràng là do amiăng hoặc erionite trong đất (1, 81).
Trong một nghiên cứu bệnh – chứng với 1133 ca ung thư trung biểu mô và 890 ca đối chứng ở California, nguy cơ ung thư trung biểu mô được quan sát có quan hệ đảo nghịch với khoảng cách của khu cư trú đến nơi có đá amiăng ultramafic xuất hiện tự nhiên có chứa amiăng serpentinic. Nguy cơ ung thư trung biểu mô sụt giảm với SMR là 0.937 (95% CI: 0895–0.982) trên 10 km khoảng cách, được điều chỉnh với tuổi và xác suất phơi nhiễm amiăng nghề nghiệp (82).
Trong một nghiên cứu ca bệnh – chứng với 68 ca ung thư trung biểu mô ở Tân Caledonia, tỷ lệ hiện nhiễm ung thư trung biểu mô ở những khu vực khác nhau ở đảo quốc có liên quan tới hàm lượng serpentinite trong đất, không phải với hoạt động khai thác mỏ hay sử dụng vôi truyền thống, “pö”, để làm nhà (83).

Phân tích tổng hợp
Từ một phân tich tổng hợp những nghiên cứu thuần tập với những số liệu định lượng về phơi nhiễm, Hodgson & Darnton (60) đã ước lượng rằng nguy cơ ung thư trung biểu mô vượt trội là 0.1% trên sợi-năm/mL cho những thuần tập bị phơi nhiễm với amiăng trắng.
Việc phân tích tổng hợp do Berman & Crump (64) thực hiện dựa trên phân tích hệ số nghiêng/dốc được ước tính cho rằng tỷ lệ tử vong do ung thư trung biểu mô gia tăng sau khi ngừng phơi nhiễm khoảng bình phương thời gian kể từ khi có phơi nhiễm đầu tiên (độ trễ thời gian là 10 năm). Hệ số nghiêng/dốc, cho ta biết mức độ gây ung thư, được ước tính là 0.15× 10−8 trên năm2 × sợi/mL cho các nhà máy ở Nam Carolina, Hoa Kỳ, và 0.018 × 10−8 trên năm2 × sợi/mL cho các mỏ ở Quebec, Canada, thể hiện phơi nhiễm với amiăng trắng, trong khi đó ước tính cho nhà máy sử dụng loại amiăng amosite ở Patterson, New Jersey, Hoa Kỳ, là 3.9 × 10−8 trên năm2 × sợi/mL. Trong một phân tích tiếp theo có xem xét kích cỡ sợi, giả thiết là dạng amiăng trắng và amphibole của amiăng nói chung là đẳng thế đã bị phản bác mạnh mẽ (P ≤ 0.001), và giả thiết là mức độ gây ung thư của amiăng trắng là bằng không lại không bị phản bác (P ≥ 0.29).
Nhóm Công tác IARC (1) đã ghi nhận rằng có mức độ bất định cao liên quan đến tính chính xác của những ước tính về mức độ tương đối có từ những phân tích của Hodgson & Darnton (60) và Berman & Crump (64) vì khả năng rất cao phân loại phơi nhiễm nhầm trong những nghiên cứu này.
Nghiên cứu những công nhân dệt ở Bắc Carolina, Hoa Kỳ (7), không được đưa vào phân tích tổng hợp. Dựa trên phương thức do Hodgson & Darnton (60) sử dụng, những tác giả của nghiên cứu Bắc Carolina (7) ước tính rằng tỷ lệ phần trăm tử vong là 0.0098% trên sợi-năm/mL đối với những công nhân được theo dõi

trong ít nhất 20 năm. Ước tính này là cao hơn đáng kể so với ước tính ban đầu được Hodgson & Darnton (60) xây dựng là 0.001% trên sợi-năm/mL cho những thuần tập bị phơi nhiễm với amiăng trắng.


Bourdes và các đồng nghiệp (84) thực hiện phân tích tổng hợp những nghiên cứu đã có về phơi nhiễm của các hộ gia đình và hàng xóm với amiăng và nguy cơ ung thư trung biểu mô và đã rút ra ước lượng tóm tắt RR là 8.1 (95% CI: 5.3–12) cho phơi nhiễm hộ gia đình và 7.0 (95% CI: 4.7–11) cho phơi nhiễm của hàng xóm.

Những kết luận của IARC về ung thư trung biểu mô
Đối với ung thư trung biểu mô, IARC đã kết luận rằng có đủ bằng chứng về việc gây ra ung thư ở người của tất cả các loại amiăng, kể cả amiăng trắng. Đây là cách thức mạnh mẽ nhất của IARC để mô tả mức độ mạnh mẽ của bằng chứng (1).

Những nghiên cứu chính mới
Hodgson & Darnton (65) đã cập nhật phân tích tổng hợp mức độ gây ung thư của những sợi amiăng khác nhau gây ra ung thư trung biểu mô sau khi công bố nghiên cứu Bắc Carolina, Hoa Kỳ, (7) và chỉnh sửa lại ước tính mức độ gây ung thư của chúng lên đến 0.007% trên sợi-năm/mL.
Trong tổng số 259 tử vong của những công nhân nhà máy amiăng người Trung Quốc (16), 2 ca là do ung thư trung biểu mô, trong khi đó không có những ca ung thư trung biểu mô nào được báo cáo trong tổng số 428 ca tử vong của thuần tập công nhân mỏ amiăng trắng người Trung Quốc (11). Hàm lượng tremolite của amiăng trắng trong những nghiên cứu này là dưới 0.001%. Trong một nghiên cứu ngắn, tỷ lệ mắc ung thư trung biểu mô ở các khu vực sản xuất amiăng (hầu hết là với amiăng trắng) ở Trung Quốc được nói là 85/1 000 000, trong khí đó nó chỉ là 1/1 000 000 trong quần thể chung (35). Cũng chưa rõ ràng về tỷ lệ nguy cơ vượt trội về phơi nhiễm với môi trường được quan sát và tỷ lệ nào do phơi nhiễm nghề nghiệp.

Phơi nhiễm với amiăng được nghiên cứu trong 229 bệnh nhân bị ung thư trung biểu mô ác tính được xác định từ cơ quan Đăng ký Ung thư trung biểu mô của Úc và được chẩn đoán trong những năm 2010 và 2012. Đối với 70 người không phát hiện phơi nhiễm nghề nghiệp bao gồm cả 37 người đã thực hiện sửa chữa lớn nhà của mình bằng các vật liệu chứa amiăng, 35 người sống trong những ngôi nhà trong thời gian sửa chữa với các vật liệu chứa amiăng, 19 người sống trong những ngôi nhà lợp fibro (tấm lợp xi măng amiăng) 19 người sống với những người làm công việc bị phơi nhiễm với amiăng, 12 người thực hiện công việc với phanh/ly hợp (không chuyên môn), 10 người đã đến Wittenoom (Thành phố Tây Úc



có mỏ crocidolite) và 8 người sống ở vùng lân cận mỏ amiăng hoặc nhà máy sản xuất sản phẩm amiăng (tổng số không thêm vào con số 70 vì nhiều người tham gia được tính vào nhiều loại) (85).
Trong một nghiên cứu bệnh – chứng ở Anh Quốc, phơi nhiễm với amiăng được nghiên cứu với việc phỏng vấn chi tiết 622 bệnh nhân ung thư trung biểu mô 1420 người thuộc quần thể đối chứng. OR cho người sống với công nhân bị phơi nhiễm trước tuổi 30 là 2.0 (95% CI: 1.3–3.2). Không có thông tin về loại sợi (86).
Tỷ lệ hiện nhiễm ung thư trung biểu mô màng phổi ác tính gia tăng trong khu vực lân cận của nhà máy amiăng trắng ở Bắc Cairo, Ai-Cập. Tỷ lệ hiện nhiễm tăng được giới hạn cho khu lân cận trực tiếp của nhà máy và người ước tính có phơi nhiễm tích lũy 20 sợi-năm/mL (87). (Nghiên cứu này không được đưa vào trong phân tích tổng hợp của Goswami và đồng sự (88) được mô tả dưới đây.)


Một nghiên cứu thuần tập với những cư dân trong 15 làng ở Thổ Nhỹ Kỳ với phơi nhiễm amiăng môi trường và 12 làng không có phơi nhiễm như vậy, có 14 ca tử vong vì ung thư trung biểu mô ở nam giới trong tổng số 73 ca tử vong ung thư; đối với phụ nữ, số người tử vong do ung thư trung biểu mô là 17 trong tổng số 40 ca tử vong ung thư. Phơi nhiễm amiăng suốt đời được ước tính dao động từ 0.19–4.61 sợi-năms/mL; loại sợi hoặc là tremolite hoặc là một hỗn hợp gồm tremolite + actinolite + amiăng trắng hoặc anthophyllite + amiăng trắng (69). (Nghiên cứu này không được đưa vào trong phân tích tổng hợp của Goswami và đồng sự (88) được mô tả dưới đây.)
Trong một phân tích tổng hợp cho 12 nhiên cứu thuần tập và bệnh – chứng về ung thư trung biểu mô sau khi phơi nhiễm trong gia đình với amiăng, Goswami và đồng sự (88) đã ước tính một RR tóm tắt là 5.02 (95% CI: 2.48–10.13). Trong 6 nghiên cứu, loại sợi không được nói cụ thể; trong một nghiên cứu nó chính là amiăng trắng; còn trong 4 nghiên cứu, nó chính là amiăng trắng với những sợi khác.

Bệnh bụi phổi amiăng
Trong số 8009 ca tử vong của công nhân mỏ và nghiền sàng ở Quebec, Canada, từ năm 1972–1992, có 108 ca là do bệnh bụi phổi (3). Ở thuần tập Nam Carolina, Hoa Kỳ, SMR của bệnh bụi phổi và các bệnh phổi khác là 4.81 (95% CI: 3.84–5.94), và SMR cho bệnh bụi phổi amiăng là 232.5 (95% CI: 162.8–321.9); có 36 ca tử vong do bệnh bụi phổi amiăng và 86 ca do bệnh bụi phổi trong tổng số 1961 ca tử vong (6). Trong thuần tập công nhân dệt sợi amiăng trắng ở Bắc Carolina, Hoa Kỳ, SMR của bệnh bụi phổi là 3.48 (95% CI: 2.73–4.38) (7).
SMR cho bệnh bụi phổi amiăng của thuần tập công nhân dệt amiăng trắng người Trung Quốc là 100 (95% CI: 72.55–137.83) (14). ở thuần tập công nhân mỏ tai Balangero, Italy, có 21 ca bệnh bụi phổi amiăng trong tổng số 590 ca tử vong (5).
Tuy nhiên, cần chú ý là bệnh bụi phổi chưa từng bao giờ được ghi nhận một cách đáng tin cậy như là một nguyên nhân gây tử vong trong những giấy chứng tử. Ngoài ra, các nghiên cứu về tử vong thường không đầy đủ để phát hiện những bệnh tật có ý nghĩa lâm sàng. Tương tự như vậy, những nghiên cứu về bệnh tật, những đặc tính căn nguyên hay chẩn đoán của các phương pháp đánh giá thông thường (tức là chụp X quang, xét nghiệm thực thể và hỏi về triệu chứng) là hạn chế. Nhiều nghiên cứu cho


Phơi nhiễm nghề nghiệp với ami ăng trắng cũng gây các bệnh phổi không ác tính

thấy rằng phơi nhiễm với amiăng trắng gây ra suy giảm chức năng phổi, thay đổi hình ảnh X quang là nhất quán với những thay đổi của bệnh bụi phổi và màng phổi (2).
Một sự sụt giảm liên quan đến liều trong năng lực sống (P = 0.023) và thể tích thở ra (P < 0.001) được quan sát thấy với phơi nhiễm tích lũy gia tăng (tức là > 8 sợi-năm/mL) với amiăng trắng của công nhân mỏ và nghiền sàng ở Zimbabwe đã bị phơi nhiễm trên 10 năm (89).
Chụp X-quang thay đổi ở công nhân dệt và sản phẩm ma sát ở Trung Quốc được Huang báo cáo (90). Một thuần tập gồm 824 công nhân làm việc ít nhất 3 năm ở một nhà máy sản xuất sản phẩm amiăng trắng từ khi khai trương nhà máy năm 1958 đến tận năm 1980 và với theo dõi tiếp sau đến tháng 9 năm 1982 đã được nghiên cứu. Nhìn chung, 277 công nhân được chẩn đoán bị bệnh bụi phổi amiăng trong giai đoạn theo dõi tiếp sau, tương ứng với tỷ lệ hiện mắc 31%. Phân tích phơi nhiễm – đáp ứng, dựa trên số liệu trọng lực được chuyển đổi sang số lượng sợi, dự đoán tỷ lệ hiện nhiễm 1% bệnh bụi phổi amiăng độ I với phơi nhiễm tích lũy là 22 sợi-năm/mL.
Bệnh bụi phổi amiăng cũng được phát hiện trong 11.3% số người vợ của các công nhân đóng tàu có phơi nhiễm amiăng với 20 năm kinh nghiệm làm việc và với 7.6% số con trai của họ. Loại amiăng không được xác định cụ thể (91). Có một hay nhiều dấu hiệu X-quang được quan sát trong số 35% tiếp xúc trong gia đình của những công nhân cách nhiệt amiăng amosite (92). Tỷ lệ hiện mắc của bệnh vôi hóa màng phổi tăng gấp 10.2 lần (95% CI: 2.8–26.3) trong anh em ruột của những công nhân trong các nhà máy amiăng trắng và 17.0 lần (95% CI: 7.7–32.2) trong số những người sống gần một nhà máy sử dụng amiăng trắng của Nga và Canada (93).


tải về 0.55 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương