A tì Đạt Ma Câu Xá Tập I


Tiết 3 : Các đặc tính sai biệt của pháp



tải về 1.12 Mb.
trang4/8
Chuyển đổi dữ liệu14.06.2018
Kích1.12 Mb.
#39974
1   2   3   4   5   6   7   8

Tiết 3 : Các đặc tính sai biệt của pháp


01. Kiến – Vô kiến

Lại nữa, trong 18 giới đã được nói, những giới nào là hữu kiến (sanidarśana)?224 Những giới nào là vô kiến (anidarśana)?225

[29a-b] Ở đây, một hữu kiến là sắc.226

Thật vậy, nó có thể được chỉ cho thấy ở chỗ này hay chỗ kia. Những giới còn lại được nói là vô kiến.


---o0o---
02. Hữu đối – Vô đối
Có bao nhiêu giới là hữu đối (sapratigha)?227 Bao nhiêu là vô đối (apratigha)?228

[29b-c] Hữu đối là 10 (giới) có sắc.229

Mười giới được bao hàm trong sắc uẩn được nói là hữu đối.

Đối (pratigha),230 tức sự đối kháng (pratighata);231 có ba thứ. Đối kháng bằng sự ngăn che, đối kháng bởi hoạt trường, và đối kháng bởi đối tượng.

a/ Đối kháng bằng sự ngăn che,232 là ngăn cản sự phát sinh của cái khác trong môi trường của mình.233 Thí dụ, bàn tay bị ngăn nơi bàn tay khác, hay nơi hòn đá. Hoặc hòn đá đối với bàn tay hay hòn đá khác.

b/ Đối kháng bởi cảnh vực,234 như hoạt trường của con mắt đối với các cảnh vực khác thuộc sắc. Prajñapti235nói: «Có loại mắt bị phản kích236 trong nước chứ không bị trên đất liền, như cá chẳng hạn. Có loại mắt bị phản kích trên đất liến, nhưng không bị trong nước, như mắt người phổ thông chẳng hạn. Hoặc bị cả hai, như cá sấu,237 ếch, quỷ tì-xá-xà,238 thợ lặn bắt cá, v.v… Hoặc không bị cả hai, tức là trừ các trường hợp kể trên. Có loại mắt bị phản kích ban đêm, ban ngày thì không; như dơi, cú. Hoặc ngày, chứ ban đêm thì không; như phổ thông loài người. Hoặc cả ngày và đêm; như chó, dã can, ngựa, beo, mèo. Hoặc cả hai đều không; trừ các trường hợp kể trên.

c/ Đối kháng bởi đối tượng,239 là tâm và tâm sở trong các đối tượng cá biệt của chúng.

Lại nữa, sự khác biệt giữa cảnh vực (viṣaya) và đối tượng (ālambana) là gì? Cảnh vực, là môi trường trong đó nó có tác dụng (kāritra). Cái gì được tâm và tâm sở bám vào, cái đó là đối tượng.

Tại sao, khi vận hành trong cảnh vực của mình, hay trong đối tượng, nó được nói là bị phản kích (pratihanyate)? Bởi vì vượt ra ngoài phạm vi đó, nó không hoạt động. Hoặc ở đây, đối kháng tức là sự va chạm;240 nghĩa là nó hoạt động trong cảnh vực của chính nó.

Ở đây, mười hữu đối, là chỉ cho sự đối kháng bởi ngăn che (āvaraṇapratighāta), vì chúng ngăn che lẫn nhau.

Những pháp nào là hữu đối vì có sự đối kháng bởi cảnh vực, thì đồng thời cũng vì có sự đối kháng bởi ngăn che? Có bốn trường hợp. Thứ nhất,241 bảy tâm giới, một phần pháp giới, tức những gì tương ưng với tâm. Thứ hai,242 năm cảnh vực. Thứ ba,243 năm căn. Thứ tư,244 một phần pháp giới, trừ các pháp tương ưng với tâm.

Những pháp nào là hữu đối, vì có sự đối kháng bởi cảnh vực, và bởi đối tượng? Đó là trường hợp sau. Những gì vì có đối kháng bởi đối tượng thì cũng vì có sự đối kháng bởi cảnh vực. Nhưng cũng có trường hợp, vì có sự đối kháng bởi cảnh vực mà không phải vì có sự đối kháng bởi đối tượng; đó là năm căn.

Đại đức Kumāralāta nói: «Ở nơi cái nào mà tâm ý muốn khởi lên, nhưng bị đối kháng bởi những cái khác, cái đó được biết là hữu đối. Vô đối, được biết là ngược lại.»

Đã nói xong hữu đối và vô đối.


---o0o---
03. Thiện – Bất thiện – Vô ký
Trong 18 giới này, bao nhiêu giới thiện (kuśala)? Bao nhiêu giới bất thiện (akuśala)? Bao nhiêu giới vô ký (avyākṛta)?

a. Duy vô ký

avyākṛtā aṣṭau

ta evārūpaśabdakāḥ //29/

此除色聲八無記

[29c-d] Vô ký, là tám giới này,



Chúng không có sắc và thanh.

Tám giới nào? Tức là 10 giới hữu đối, trừ đi sắc và thanh. Tức các giới gồm năm căn, hương, vị, và xúc. Tám giới này không xác định được là thiện hay bất thiện, nên chúng là vô ký. Thuyết khác nói, đối với quả dị thục (vipāka), chúng không xác định. Phản nạn nói: thế thì, trong vô lậu cũng như vậy?245

b. Thông cả ba

tridhā’nye

餘三種

[30a] Còn lại, gồm cả ba.



Mười giới còn lại gồm cả thiện, bất thiện, và vô ký.

Trong đó, bảy giới (tâm giới, cittadhātavaḥ) là thiện khi liên hệ với vô tham các thứ;246 là bất thiện khi liên hệ với tham các thứ; ngoài ra là vô ký.

Pháp giới, là thiện, nếu nguyên khởi liên hệ với tự tính của vô tham các thứ, và trạch diệt; là bất thiện, nếu nguyên khởi liên hệ tham các thứ. Ngoài ra, là vô ký.

Hai giới sắc, là thiện hay bất thiện, khi kết hợp với thân biểu và ngữ biểu, có nguyên khởi từ tâm thiện hay bất thiện. Ngoài ra, chúng là vô ký.


---o0o---
04. Giới hệ
Trong 18 giới này, bao nhiêu giới hệ thuộc Dục giới (kāmadhātu)? Bao nhiêu giới trong Sắc giới (rūpadhātu)?

a. Dục giới

kāmadhātv āptāḥ sarve

欲界繫十八


[30a-b] Tất cả hệ thuộc Dục giới

Hệ thuộc, nghĩa là không phân ly; chúng dính chặt vào Dục giới.

b. Sắc giới

rūpe caturdaśa

色界繫十四

[30b] Mười bốn trong Sắc giới.



Có 14 giới trong Sắc giới (rūpadhātu).

vinā gandharasaghrāṇa-

jīhvāvijñānadhātubhiḥ //30/

除香味二識


[30b-d] Trừ các giới hương, vị,

Thức của mũi và thức của lưỡi.

Thật vậy, trong cõi này không có hương và vị. Vì hai giới này thuộc loại đoàn thực,247 và vì thác sinh lên đây chỉ những ai ly dục đối với loại thực phẩm này. Do vậy, thức của mũi và thức của lưỡi cũng không có; vì đối tượng của chúng không tồn tại.

Phản nạn rằng, như vậy trong cõi này xúc giới (spraṣṭavyadhātu) cũng không tồn tại; vì nó cũng thuộc loại đoàn thực?

[Không phải vậy] Xúc nào mà tự tính không phải là thực phẩm (āhārasvabhāva)248, thức ấy có ở cõi này.

Phản nạn rằng, nếu vậy, hương và vị cũng như thế?249

[Không phải vậy] Hương và vị, ngoài tính cách làm thức ăn, không có công dụng gì. Nhưng ở đây có xúc, vì là sở y của căn, là sự duy trì, là y phục. Vì vậy, với những ai đã ly dục đối với thực phẩm thì hương và vị ở đây vô dụng; nhưng xúc thì không phải vậy.

Vị khác250 nói, do y chỉ các thiền (dhyāna) và định (samāpatti), mà các sắc được thấy, thanh được nghe; và thân được ích lợi do xúc đặc biệt cùng song hành với khinh an (praśrabdhi). Cho nên, ba giới này phát sinh với sự sinh khởi của Thiền, mà hương và vị thì không.

Phản nạn rằng, như vậy, căn của mũi và lưỡi không tồn tại ở đây vì vô dụng.

[Không phải vậy]251 Chúng có công dụng. Thật vậy, nếu không có hai giới này thì sẽ không có ngôn ngữ và vẻ đẹp của thân.

Nếu vì mục đích sắc đẹp và phát ngôn, thì y xứ (adhiṣṭhāna) là cần thiết; cần gì căn?

Không có căn thì y xứ không xuất hiện; như y xứ của nam căn.252 Lẽ đương nhiên nó không xuất hiện, vì không có công dụng. Nhưng y xứ của mũi và lưỡi có công dụng. Do đó, lẽ đương nhiên nó xuất hiện mà không có căn.

Mặc dù253 không có công dụng, căn vẫn sinh khởi; như đối với những cái chết nhất định trong thai. Có thể có.254 Không có công dụng, nhưng không phải không có nguyên nhân. Vậy, nguyên nhân gì cho sự phát sinh của căn? Nghiệp đặc biệt do khát ái liên hệ đến căn này. Những ai dứt khát ái đối với cảnh, thì nhất định cũng dứt khát ái đối với căn. Với những ai đã ly dục đối với cảnh, căn của mũi và lưỡi nơi đó không thể phát sinh.255

Hoặc, tại sao nam căn cũng không hiện sinh nơi đó?256 Vì không đẹp.257

Sự ẩn kín của mã âm tàng258 có gì là không đẹp?259 Vả lại, sự sinh khởi của nó không chỉ vì có công dụng. Vì sao? Đó là do năng lực của tác nhân (kāraṇa). Mặc dù không đẹp mắt, nhưng nếu có nguyên nhân thì có sự sinh khởi.

Ở đây, mâu thuẫn với Kinh.260 Kinh nói, «với căn không khuyết tật, không thiếu bớt.» Những căn nào tồn tại ở đó, các căn ấy không khiếm khuyết, không khuyết tật, thì có gì là mâu thuẫn?

Phản nạn rằng, nếu vậy, ở đây cũng tồn tại nam căn.261

Nhưng Kinh ấy nói như vậy.262 Mặc dù ở đây có căn của mũi và lưỡi, nhưng không có hương và vị. Thật vậy, do thông qua tự thể nội thân (ātmabhāva), chứ không phải thông qua cảnh vực, mà khát ái phát sinh nơi sáu xứ (āyatana). Nhưng thông qua xúc dâm dục (maithunasparśa) mà ái phát sinh nơi nam căn. Do vậy, điều được chứng minh là hệ thuộc trong Sắc giới có mưới bốn giới.

c. Vô sắc giới

ārūpyāptā manodharma-

manovijñānadhātavaḥ/

無色繫後三


[31a-b] Hệ thuộc Vô sắc giới, gồm ý, pháp

 và ý thức giới.

Những ai đã ly dục đối với sắc sinh ở đây. Do đó, ở cõi này, mười giới mà tự tính là sắc, tức là năm sở y và các đối tượng của chúng, cùng với năm thức giới, không sinh khởi.263
---o0o---
05. Hữu lậu – Vô lậu
Có bao nhiêu giới là hữu lậu (sāsrava)? Có bao nhiêu giới là vô lậu (anāsrava)? Ý giới, pháp giới và ý thức giới đã nói trên,

a. Cả hai

sāsravānāsravā ete trayaḥ

意法意識通

[31c-d] Ba giới này hoặc hữu lậu hoặc vô lậu.



Chúng là vô lậu khi được liệt vào đạo đế (mārgasatya) hay vô vi (asaṃskṛta). Ngoài ra, là hữu lậu.

b. Duy hữu lậu

śeṣās tu sāsravāḥ //31/

所餘唯有漏

[31d] Còn lại là hữu lậu.



Mười lăm giới còn lại duy chỉ hữu lậu.
---o0o---
06. Tầm - Tứ
Có bao nhiêu giới là hữu tầm (savitarka)264 và hữu tứ (savicāra)? Bao nhiêu chỉ có tứ? Bao nhiêu giới không tầm không tứ?

a. Năm thức thân

savitarkavicārā hi

pañca vijñānadhātavaḥ/

五識唯尋伺


[32a-b] Hữu tầm tứ, thật vậy,

Là năm thức giới.

Chúng luôn luôn liên hệ tầm và tứ.265 Từ thật vậy (hi)266 có mục đích hạn chế.

b. Ba giới cuối

antyās trayas triprakārāḥ

後三三

[32c] Ba giới sau cùng, cả ba trạng thái.



Những giới sau cùng, chỉ cho ý giới, pháp giới và ý thức giới. Ba giới này đủ cả ba trạng thái (prakāra).267

1/ Ở đây, trong Dục giới và Sơ thiền, có tính chất tầm-tứ gồm có ý giới, ý thức giới, phần pháp giới tương ưng tâm (saṃprayukta), và trừ bản thân tầm và tứ.

2/ Thiền trung gian (dhyānāntara), không có tầm; duy chỉ có tứ.

3/ Từ Nhị thiền trở lên cho đến Hữu đỉnh (bhāvagra), không tầm và không tứ. Hết cả pháp giới không tương ưng tâm, và tứ trong Thiền trung gian, cũng vậy.

4/ Nhưng, tầm thì luôn luôn không có tầm mà chỉ có tứ; vì không có hai tầm đồng thời, và vì chỉ có liên hệ với tứ.

Tứ trong Dục giới và trong Sơ thiền không xuất hiện trong ba trạng thái này. Trường hợp này được nói như thế nào? Nói là không tứ duy tầm; vì không có hai tứ đồng thời, và vì chỉ liên hệ với tầm.

Do đó nói rằng trong các địa vị (bhūmi) hữu tầm hữu tứ, các pháp có bốn trạng thái:

1. Hữu tầm hữu tứ là các pháp tương ưng tâm trừ đi tầm và tứ.

2. Không tầm duy tứ, là tầm.

3. Không tầm không tứ, là các pháp không tương ưng tâm. 4. Không tứ duy tầm, là tứ.



c. Mười giới sắc

śeṣā ubhayavarjiāḥ //32/

餘無

[32d] Còn lại, không cả hai.



Mười giới có sắc (rūpin) còn lại luôn luôn không tầm, không tứ, vì không tương ưng tâm.

Nếu năm thức thân (vijñānakāya) có tầm, có tứ, tại sao chúng được nói là không phân biệt (avikalpa)?

nirūpaṇānusmaraṇa-

vikalpenāvikalpakāḥ/

說五無分別 由計度隨念

[33a-b] Do [không có] phân biệt bằng thẩm sát và ức niệm,

nên chúng là không phân biệt.

Truyền thuyết268 nói, phân biệt có ba dạng. Phân biệt do tự tính (svabhāva)269, bằng thẩm sát (abhinirūpaṇa),270 và bằng hồi ức (anusmaraṇa).271 Chúng chỉ có phân biệt do tự tính, mà không hai dạng kia; do đó nói chúng là không phân biệt. Cũng như con ngựa có một chân được gọi là không chân (apādaka). Ở đây, phân biệt do tự tính là tầm (vitarka). Điều này sẽ được nêu rõ trong chương về tâm sở (caitta)272 ở sau.

d. Ý phân biệt

Vả lại, tự tính của hai cái kia là gì? Nói theo thứ tự,

tau prajñāmānasī vyagrā

smṛtaḥ sarvaiva mānasī //33/

以意地散慧 意諸念為體

[33c-d] Cả hai, là tuệ với tâm ý không tập trung;

tất cả niệm, đều là tâm ý.

Tuệ (prañā)273 tương ưng ý thức được gọi là tâm ý (mānasī).274 Không tập trung (avyagra), tức là không có định tâm (asamāhita). Đó là phân biệt bằng thẩm sát. Tất cả sự ức niệm của tâm ý,275 trong trạng thái định hay không định, là phân biệt bằng hồi ức.


---o0o---
07. Sở duyên
Có bao nhiêu giới có đối tượng?276 Có bao nhiêu giới không đối tượng?

a. Bảy tâm giới

sapta sālambanāś citta-

dhātavaḥ


七心…[有所緣]

[34a-b] Bảy tâm giới có đối tượng.

Các thức giới của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý và ý giới; tám tâm giới có đối tượng vì chúng nắm bắt cảnh vực (viṣaya).

b. Các giới khác

ardhaṃ ca dharmataḥ/

法界半 有所緣[餘無277]

[34b] Và một phần pháp giới, có đối tượng.

Có đối tượng là [những pháp] mà tự tính là tâm sở (caittasika). Còn lại mười giới không có sắc và một phần pháp giới mà không tương ưng tâm, là không đối tượng.
---o0o---
08. Chấp thọ
Có bao nhiêu giới là được chấp thọ?278 Có bao nhiêu giới không được chấp thọ?

a. Không chấp thọ

navānupāttāte

前八界及聲 無執受

[34c-d] Chín không chấp thọ.

Những gì là chín? Bảy giới có đối tượng đã nói trên, và toàn phần giới thứ tám (pháp giới),

cāṣṭau śabdaś ca

Tám giới ấy cùng với thanh.

Chín giới này không được chấp thọ; đó là bảy tâm giới, pháp giới và thanh.



b. Cả hai

anye nava dvidhā //34/

餘二

[34d] Chín còn lại, cả hai thứ.



Tức hoặc được chấp thọ hoặc không được chấp thọ. Ở đây, mắt tai, mũi, lưỡi, thân, hiện tại là chấp thọ; quá khứ và vị lai là không được chấp thọ. Các giới sắc, hương, vị, xúc, hiện tại không tách rời căn là được chấp thọ; ngoài ra là không chấp thọ. Như các thứ, trừ đi gốc rễ của chúng, tóc, lông, móng, răng, phân, nước tiểu, đàm, nước giải, máu. 279

Chấp thọ (upātta) nghĩa là gì? Những thứ được tâm và tâm sở nắm giữ làm điểm sở y, vì hữu ích hay tổn hại chúng đều phụ thuộc lẫn nhau. Tức là điều mà thế gian gọi là «có cảm giác.»280


---o0o---
09. Đại chủng
Có bao nhiêu giới mà tự tính là đại chủng (bhūtasvabhāva)? Có bao nhiêu giới là đại chủng phái sinh (bhautika)?281

spraṣṭavyaṃ dvividhaṃ

觸界中有二

[35a] Xúc có hai thứ.



Đó là đại chủng và đại chủng phái sinh. Trong đây, đại chủng có bốn. Đại chủng phái sinh là tính chất trơn láng, v.v… có bảy thứ. Phái sinh, vì là cái tồn tại trong các đại chủng.282

śeṣā rūpiṇo nava bhautikāḥ/

餘九色所造

[35b] Chín giới có sắc còn lại là phái sinh.



Năm căn giới và bốn cảnh vực (viṣaya); chín giới này duy chỉ là phái sinh.

dharmadhātvekadaśaś ca

法一分亦然

[35c] Và một phần pháp giới.



Cái được biết là vô biểu, là phái sinh.

Còn lại bảy tâm giới và pháp giới trong đó trừ vô biểu, không cả hai.

a/ Đại đức Buddhadeva nói, «Mười xứ283 duy chỉ đại chủng.» Điều nầy không đúng. Vì theo trong Kinh, một cách xác định, đại chủng là bốn tính chất, cứng, v.v…284 Và vì chúng285 là cái được xúc.286 Thật vậy, tính chất cứng v.v… không được nắm bắt bởi con mắt các thứ; và thân căn cũng không nắm bắt màu sắc.

Và Kinh cũng nói: «Này Tỳ-kheo, con mắt là nội xứ, tịnh thể của sắc phái sinh của bốn đại, là cái có sắc, có thể được thấy, có đối kháng. Cho đến, thân cũng vậy. Sắc, này Tỳ-kheo, là ngoại xứ, phái sinh của bốn đại, là cái có sắc, có thể được thấy, có đối kháng. Thanh, này Tỳ-kheo, là cái có sắc, không thể được thấy, có đối kháng. Cũng vậy, hương và vị. Xúc, này Tỳ-kheo, là ngoại xứ, bốn đại chủng, phái sinh của bốn đại chủng, không thể thấy, có đối kháng.»

Như vậy,287 một phần của xúc bao hàm các đại chủng; phần còn lại thì không.

b/ Nhưng, Kinh nói, «Những gì nơi con mắt, nơi khối thịt, là tính chất cứng (kakkhaṭa), thuộc thể rắn (kharagata).»288 Kinh nêu rõ tính chất ấy của khối thịt289 không tách rời với [con mắt] ấy.

Nhưng, trong Kinh Garbhavikranta,290 có nói, «Sáu giới này, Tỳ-kheo, là con người (puruṣa)»? Ý nghĩa là nêu rõ thực thể căn bản (maulasattvadravya)291 của con người. Lại nữa, bởi vì Kinh cũng nói, có sáu xúc xứ.292 Và bởi vì sẽ sai lầm nếu nói tâm sở không tồn tại.293 Và cũng không chính xác để thừa nhận rằng tâm sở chính là tâm. Vì Kinh nói, «Tưởng và thọ là các tâm sở. Pháp ấy loại tợ tâm, y chỉ tâm.»294 Cũng như Kinh nói, tâm có tham.295 Sự sai biệt của đại chủng và phái sinh trong mười giới cũng vậy.
---o0o---
10. Khả tích
Có bao nhiêu là khả tích (saṃcita), và có bao nhiêu không khả tích (asaṃcita)?

saṃcitā daśa rūpiṇaḥ //35/

十色可積集

[35d] khả tích, mười có sắc.



Năm căn giới, và năm cảnh vực của chúng, là những khả tích, vì là hợp thể của cực vi (paramāṇusaṅghata)296. Còn lại là không khả tích. Ý nghĩa là như vậy.

Trong mười tám giới, những giới nào bị chẻ, những giới nào chẻ?297 Những giới nào bị đốt, những giới nào đốt?


---o0o---
11. Gián đoạn
chinatti chidyate caiva

bāhyaṃ dhātucatuṣṭayam/

謂唯外四界

能斫及所斫


[36a-b] Chẻ và bị chẻ

Bốn giới bên ngoài.

Sắc, hương, vị và xúc: hoặc là búa, hoặc là cây.

Pháp ấy là gì mà được gọi là chẻ (cheda)298? Sự cắt đứt dòng chảy hợp thể vốn hiện khởi liên tục, tạo thành các phần đoạn. Các căn, thân chẳng hạn, không bị chẻ. Khi toàn chi thể bị chẻ, nó không tạo thành hai chi. Thật vậy, chúng không trở thành hai căn, vì chi bị cắt ra không còn là căn nữa. Chúng cũng không chẻ. Vì trong suốt,299 như ánh sáng của minh châu.


---o0o---
12. Trọng lực
Cũng như chẻ và bị chẻ, cũng vậy, bốn giới bên ngoài:

dahyate tulayaty evaṃ

vivādo dagdhṛtulyayoḥ//36/

亦所燒能稱


能燒所稱諍

[36c-d] Bị đốt và cân cũng vậy.

Đốt, bị cân, còn tranh luận.

Nó bị đốt,300 thì nó cũng cân.301 Các căn không vậy, vì tính trong suốt, như ánh sáng của minh châu. Thanh cũng không, vì nó không có tính gián đoạn.

Cái đốt, chính là bốn giới. Cái đốt ấy cũng là cái được cân.302

Có vị nói rằng, chỉ có hỏa giới là cái đốt. Và chỉ cái có trọng lực, là cái được cân.

Bao nhiêu giới là dị thục sinh? Bao nhiêu giới là sở trưởng dưỡng? Bao nhiêu giới là đẳng lưu tính? Bao nhiêu giới là thật vật? Bao nhiêu có tính sát na?
---o0o---
13. Hậu quả-phát triển
vipākajaupacayikāḥ

pañcādhyātmaṃ…/

內五有熟養

[37a-b] Dị thục sinh, sở trưởng dưỡng,



Năm nội giới.

Năm nội giới, con mắt các thứ, là dị thục sinh303 và sở trưởng dưỡng.304 Chúng không là đẳng lưu. Không có đẳng lưu nào tách rời dị thục và sở trưởng dưỡng.

Ở đây, dị thục sinh là cái phát sinh từ dị thục nhân.305 Trong đó lược bỏ từ trung gian. Như nói «xe bò.»306Hoặc được nói là dị thục khi nghiệp đã đi đến thời gian cho kết quả. Tức là, nghiệp sau khi được nấu chín;307cái phát sinh từ đó được gọi là dị thục. Nói cách khác, khi quả là cái đã chín, nó được gọi là dị thục sinh. Hoặc trong nhân giả thuyết là quả, cũng như trong quả giả thuyết là nhân. Kinh nói, «Sáu xúc xứ này là nghiệp quá khứ.»

Sở trưởng dưỡng308 là những cái được tích lũy từ thực phẩm, từ sự trang sức, từ ngủ nghỉ, từ định. Có vị nói,309 do bởi phạm hạnh. Nhưng phạm hạnh chỉ là sự không gây tổn hại chứ không phải do bởi đó mà có sự tích lũy. Tính liên tục310 của sở trưởng dưỡng bảo vệ tính liên tục của dị thục, như sự bảo vệ của thành trì ngoại vi.

Thanh là sở trưởng dưỡng311 và cũng là đẳng lưu.

…vipākajaḥ/

na śabdaḥ…

聲無異熟生


[37b] Thanh không là dị thục sinh.

Tại sao? Vì nó hoạt động do bởi ý muốn.312 Nhưng Prajñapti nói, «Tướng đại nhân được thành tựu từ sự tu tập hoàn thiện tránh xa lời thô ác.»313 Các vị khác nói, thanh thuộc khâu thứ ba:314 từ các nghiệp mà có các đại chủng; từ các đại chủng mà có thanh. Hoặc các vị khác nữa nói, thanh thuộc khâu thứ năm: từ các nghiệp mà có các đại chủng dị thục; từ đây mà có các sở trưởng dưỡng; từ sở trưởng dưỡng là đẳng lưu;315 từ các đẳng lưu là thanh. Nếu vậy, cảm thọ nơi thân, vốn phát sinh từ đại chủng do nghiệp sinh, không thể là dị thục? Nếu thọ cũng như thanh,316 mâu thuẫn không phù hợp.


---o0o---
14. Đẳng lưu

… apratighā aṣṭau

naiḥṣyandika vipākajāḥ//37/

八無礙等流


亦異熟生性

[37cd] …Tám không đối kháng

Là đẳng lưu và dị thục sinh/

Những gì là tám? Bảy tâm giới và pháp giới. Thuộc đẳng lưu317 là những gì được sinh từ nhân đồng loại biến hành.318 Những gì phát sinh từ nhân dị thục319 là dị thục sinh. Chúng không phải là sở trưởng dưỡng, vì không tồn tại sự tích tụ cho những gì không có tính đối kháng.

tridhānye…

餘三

[38a] Còn lại, gồm cả ba.



Bốn giới khác còn lại, đó là sắc, hương, vị, xúc. Chúng là dị thục sinh, là sở trưởng dưỡng, cũng là đẳng lưu.
---o0o---
15. Thực chất
… dravyavān ekaḥ

實唯法


[38a] Có thực chất, chỉ một.

Có thực chất320 là vô vi, vì chắc thật. Vì vô vi tồn tại trong pháp giới, do đó nói, chỉ một pháp giới là có thực chất.


---o0o---
16. Sát-na

kṣaṇikāḥ paścimās trayaḥ/

剎那唯後三

[38b] Thuộc sát na, ba giới cuối.



Những giới cuối, kể theo thứ tự văn mạch, là ý giới, pháp giới và ý thức giới. Một sát na trong phẩm loại vô lậu tối sơ321 thuộc khổ pháp trí nhẫn (duḥkhe dharmajñānakṣānti), chúng không phải là đẳng lưu322 do đó được nói là có tính sát na. Không có pháp hữu vi đã sinh khởi nào khác mà không phải là đẳng lưu. Ở đây tâm tương ưng với khổ pháp trí nhẫn là ý giới và ý thức giới. Còn lại những gì tồn tại cùng lúc với tâm này, là pháp giới.
---o0o---
17. Thành tựu
Điều này cần được nghiệm xét: Trong khi thủ đắc nhãn giới mà vốn chưa thành tựu,323 có thành tựu giới của thức con mắt không? Hoặc khi thành tựu giới của thức con mắt, có thành tựu giới của con mắt không? Tụng nói:

cakṣuvijñānadhātvoḥ syāt

pṛthak lābhaḥ sahāpi ca// 38/

眼與眼識界


獨俱得非等

[38cd] Nhãn giới và nhãn thức giới

Có sở đắc riêng, và cùng lúc.

1/ Thủ đắc riêng biệt.324 (a) Hoặc chỉ thủ đắc giới của con mắt mà không thủ đắc giới của thức con mắt. Đó là sở đắc một cách tiệm tiến căn con mắt trong Dục giới; và khi chết ở Vô sắc giới mà tái sinh vào cõi thiền thứ hai.325 (b) Hoặc thủ đắc giới của thức con mắt chứ không giới của con mắt: khi tái sinh các cõi thiền từ thứ hai trở lên, nhãn thức hiện tiền; hoặc từ đó chết tái sinh các cõi thấp hơn.

2/ Thủ đắc cùng lúc.326 (a) Thành tựu cả hai khi sở đắc. Đó là chết ở Vô sắc giới tái sinh vào Dục giới và Phạm thế. (b) Không thủ đắc cả hai: trừ các trường hợp kể trên.

Khi thành tựu (samanvāgata) giới của con mắt, có thành tựu luôn giới của thức con mắt không? Có bốn phạm trù:

Thứ nhất, tái sinh trong các cõi thiền từ thứ hai trở lên, thức con mắt không hiện tiền.

Thứ hai, sinh trong Dục giới, con mắt chưa sở đắc hoặc đã mất.

Thứ ba, sinh trong Dục giới, con mắt đã sở đắc và chưa mất; sinh trong Sơ thiền; sinh trong các cõi thiền thứ hai trở lên khi đang nhìn.

Thứ tư, trừ các trường hợp trên.

Cũng như vậy, sở đắc và thành tựu của giới của con mắt và giới của sắc; giới của thức con mắt và giới của sắc, theo sự hợp lý mà suy diễn.

Từ , trong và cùng với,327 có mục đích tóm lược điều được lập luận như vậy.


---o0o---

tải về 1.12 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương