A tì Đạt Ma Câu Xá Tập I


Tiết 2 : Thiết lập ba khoa



tải về 1.12 Mb.
trang3/8
Chuyển đổi dữ liệu14.06.2018
Kích1.12 Mb.
#39974
1   2   3   4   5   6   7   8

Tiết 2 : Thiết lập ba khoa

I. Thống nhất uẩn xứ giới


A. Tụng văn

PHẠN VĂN

sarvasaṃgraha ekena skandhenāyatanena ca/

dhātunā ca svabhāvena parabhāvaviyogataḥ//18/

jātigocaravijñānasāmānyād ekadhātutā/

dvitve’ pi cakṣurādīnām śobhārthaṃ tu dvayobhavaḥ//19/

HÁN VĂN

總攝一切法 由一蘊處界

攝自性非餘 以離他性故

類境識同故 雖二界體一

然為令端嚴 眼等各生二

VIỆT DỊCH

Tất cả pháp được thống nhất bởi một uẩn, một xứ,

Và một giới; theo tự thể, vì không tương hợp tha thể.

Tự bản tính, là một giới, vì đồng nhất chủng loại, hoạt trường, nhận thức;

Tuy vậy, con mắt các thứ có hai. Nhưng vì mục đích thẩm mỹ mà phát sinh thành hai.

Vì mục đích sai biệt, vì lý do ưu thế, và vì bao hàm nhiều pháp;

Một xứ được gọi là sắc xứ, và một là pháp xứ.
---o0o---
B. Luận thích

1. Nguyên lý tổng thể

Ở đây, tất cả hữu vi được thống hợp140 trong uẩn. Tất cả hữu lậu được thống hợp trong thủ uẩn. Xứ và giới thống hợp toàn thể hết thảy pháp.

Nhưng, theo tổng thể, nên biết:

[18a-b] Thống nhất toàn thể141 bởi một uẩn, một xứ,

Và một giới;

Bằng một sắc uẩn, một ý xứ và một pháp giới, nên biết, tất cả pháp được thống nhất.142 Đây là sự thống nhất được nói đến nhiều nơi143, cần phải biết:

[18c] theo tự thể144.

Chứ không theo tha thể. Vì sao?

[18d] Vì không tương hợp tha thể.

Thật vậy, pháp không tương hợp với tha thể.145 Do đó, không thể nói nó được thống nhất với cái mà nó không tương hợp. Chẳng hạn, căn con mắt được thống nhất với sắc uẩn, được thống nhất trong xứ và giới của con mắt, trong Khổ và Tập đế. Vì đấy là tự thể của nó. Nhưng nó không được thống nhất với các uẩn khác, vì không cùng thể tính với nó.

Thế nhưng, sự thống nhất cũng được nói rằng thống nhất cái này bởi cái khác, như một cộng đồng được thống nhất bởi các nhiếp sự?146 Quả thật vậy, nhưng những trường hợp đó được nói theo ước lệ147
2. Cá biệt

Phải chăng cần công nhận có hai mươi mốt giới, bởi vì có hai mắt, hai tai và hai mũi? Không thể kể như vậy. Bởi vì,

[19a-c] Tự bản tính, là một giới, vì đồng nhất chủng loại, hoạt trường, nhận thức;

Tuy vậy, con mắt các thứ có hai.

Ở đây, đồng nhất chủng loại, vì cả hai cũng đồng tự thể là con mắt. Đồng nhất hoạt trường148, vì cùng chung cảnh vực là sắc. Đồng nhất nhận thức, vì cả hai cũng đồng là sở y cho thức con mắt. Vì vậy, chỉ có một giới của con mắt. Tai và mũi cũng vậy.

[18d] Nhưng vì mục đích thẩm mỹ mà phát sinh thành hai.

Chỉ một giới nhưng con mắt các thứ sinh thành hai, vì mục đích thẩm mỹ cho sở y. Nếu không như thế, với một con mắt, một lỗ tai, một lỗ mũi, có thể cực kỳ xấu xí.149

Đã nói xong uẩn, xứ, giới.


---o0o---

II. Tổng luận ba khoa


A. Tụng văn

PHẠN VĂN

rāśyāyadvāragotrārthāḥ skandhāyatanadhātavaḥ/

mohendriyarucitraidhāt tisraḥ skandhāđieśanāḥ//20/

vivādamūlasaṃsārahetutvāt kramakāraṇāt

caittebhyo vedanāsaṃjñe pṛthak skandhau niveśitau//21/

skandheṣv asaṃskṛtaṃ noktam arthāyogāt kramaḥ punaḥ/

yathaudārikasaṃkleśabhājanādyarthadhātutaḥ//22/

prāk pañca vartamānārthyād bhautikārthyāc catuṣṭayaṃ/

dūrāśutaravṛttyānyad yathāsthānaṃ kramo’ tha vā //23/

viśeṣaṇārthaṃ prādhānyād bahudharmāgrasaṃgrahāt/

ekam āyatanaṃ rūpam ekam dharmākhyam ucyate// 24/

dharmaskandhasahasrāni yāny aśītiṃ jagau muniḥ/

tāni vāṅ nāma vety eṣaṃ rūpasaṃskārasaṃgrahaḥ//25/

śāstrapramāṇa ity eke skandhādīnāṃ kathaikaśaḥ/

caritapratipakṣas tu dharnasskandho’ nuvarṇitaḥ//26/

tathānye’ pi yathāyogaṃ skandhyatanadhātavaḥ/

pratipādyā yathokeṣu saṃpradhārya svalakśaṇaṃ//27/

chidram ākāśadhātvākhyam ālokatamasī kila/

vijñānadhātur vijñānaṃ sāsravaṃ janmaniśrayaḥ//28/

HÁN VĂN

聚生門種族 是蘊處界義

愚根樂三故 說蘊處界三

諍根生死因 及次第因故

於諸心所法 受想別為蘊

蘊不攝無為 義不相應故

隨麤染器等 界別次第立

前五境唯現 四境唯所造

餘用遠速明 或隨處次第

為差別最勝 攝多增上法

故一處名色 一名為法處

牟尼說法蘊 數有八十千

彼體語或名 此色行蘊攝

有言諸法蘊 量如彼論說

或隨蘊等言 如實行對治

如是餘蘊等 各隨其所應

攝在前說中 應審觀自相

空界謂竅隙 傳說是明闇

識界有漏識 有情生所依

VIỆT DỊCH

Uẩn, xứ và giới, có nghĩa là tụ, sinh môn và chủng tộc.

Ngu si, căn tính, và sở thích đều có ba, do đó thuyết pháp bằng uẩn v.v…

Vì là gốc rễ của đấu tranh; vì là nguyên nhân của luân hồi; và vì lý do thứ tự.

Do đó, từ các tâm sở, thọ và tưởng được lập thành hai uẩn riêng biệt.

Vô vi không được đề cập trong các uẩn. Vì ý nghĩa không phù hợp.

Lại nữa, thứ tự, cũng như ý nghĩa của thô, nhiễm và khí cụ; cũng vậy, về giới.

Năm [căn] kể trước, vì đối tượng của chúng là hiện tại.

Bốn căn đầu, vì đối tượng là địa chủng phái sinh.

Còn lại, theo hoạt động tầm xa và nhanh hơn.

Hoặc thứ tự tùy theo vị trí.

Vì mục đích giản biệt, vì lý do ưu thế, vì bao hàm nhiều pháp; và vì tối thượng

Một xứ được gọi là sắc xứ, và một là pháp xứ.

Đức Muni đã tán vịnh tám nghìn pháp uẩn;

Tùy theo chúng là ngữ hay danh mà được bao hàm trong sắc hay hành

Có thuyết nói, đó là lượng của Luận.

Mỗi nghị luận là một uẩn các thứ.

Nhưng, pháp uẩn được giải thích theo sự đối trị tập tính.

Cũng vậy, các uẩn, xứ, giới khác, tùy theo sự thích ứng,

Được đề cập trong nhưng cái như đã nói, quan sát yếu tính của chúng.

Lỗ hổng được quan niệm là hư không giới.

Truyền thuyết nói là sáng và tối.

Thức giới, là thức hữu lậu.

Những sở y của sinh mạng.


---o0o---
B. Luận thích

1. Ý nghĩa uẩn-xứ-giới

Tuy nhiên, điều cần phải nói ở đây là, nghĩa của uẩn, xứ và giới là gì?



i. Uẩn (skandha)

[20a-b] Uẩn, xứ và giới, có nghĩa là tụ, sinh môn và chủng tộc.

Kinh150 nói: «Những gì là sắc, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại, hoặc trong, hoặc ngoài, hoăc thô, hoặc vi tế, hoặc thấp kém, hoặc vi diệu, hoặc xa, hoặc gần, tất cả được tổng họp làm một, và gọi đó là sắc uẩn.» Điều đó chứng minh rằng trong Kinh uẩn có nghĩa là tụ (đống)151.

Trong đó, sắc quá khứ là cái đã bị hủy diệt bởi vô thường. Vị lai là cái chưa sinh. Hiện tại là cái đã sinh mà chưa diệt. Cái bên trong là cái thuộc chuỗi tiếp nối tự thân152. Khác với đây là ngoài. Hoặc tùy theo xứ mà nói.153 Thô, là cái có đối kháng154. Vi tế là cái không đối kháng. Hoặc do đối chiếu155 mà xác định.

Nếu thế, nếu do đối chiếu, thì thô và tế bất thành? Không phải vậy. Vì có sự khác biệt về cái được đối chiếu156. Khi do đối chiếu mà nó là thô, thì khi ấy không do đối chiếu mà nó là tế. Như cha và con.157

Cái thấp kém, là cái ô nhiễm. Vi diệu, là cái không ô nhiễm. Xa, là cái thuộc quá khứ. Gần, là cái thuộc hiện tại.

Cũng vậy, cho đến thức. Tuy nhiên, có điểm đặc biệt này. Thô, là (thức) lấy năm căn làm y. Tế là ý. Hoặc, theo các nhà Vaibhāśika, tùy theo địa vị.

Bhadanta158 nói: Sắc thô là cái được tiếp nhận bởi năm căn. Trái lại là vi tế. Thấp kém, là cái không thích ý. Vi diệu là cái thích ý. Xa, là ở vị trí không được thấy. Gần là ở vị trí được thấy. Nhưng cái quá khứ, v.v... đã được nêu rõ bởi danh từ của chúng.»

Thọ, v.v… nên biết, cũng như vậy. Tuy nhiên, xa hay gần là tùy thuộc sở y của chúng. Thô và tế cũng như trên.
ii. Xứ (āyatana)

Cửa sinh xuất159 của tâm và tâm sở, là nghĩa của xứ. Theo ngữ nguyên, xứ là cái làm gia tăng sự sinh xuất của tâm và tâm sở160. Nghĩa là, chúng khuếch trương.161


iii. Giới (dhātu)

Nghĩa của giới là chủng tộc.162 Cũng như ở một chỗ trong núi có nhiều họ của sắt, đồng, vàng, bạc các thứ, được gọi là giới; cũng vậy, trong một sở y hay trong chuỗi tương tục có mười tám chủng loại được gọi là mười tám giớí.

Ở đây, chủng tộc được hiểu là mỏ.163

Thế thì, con mắt các thứ là mỏ của cái gì? Của chủng loại cá biệt của nó. Vì là đồng loại nhân.164 Nếu vậy, vô vi không thể là giới.165 Nhưng, nó là mỏ khoáng của tâm và tâm sở.

Theo thuyết khác, từ «giới» hàm nghĩa chủng loại. Chủng loại của mười tám pháp có tự thể riêng biệt, nên có mười tám giới.
iv. Phê phán định nghĩa

a. Uẩn giả hữu

Nếu uẩn có nghĩa là tụ, uẩn phải được quan niệm là giả hữu,166 vì là tập hợp của nhiều vật thể bất nhất; như một tụ, một con người?167

Không phải vậy. Vì một cực vi của vật thể cũng là uẩn.

Nếu vậy, ở đây không thể nói «uẩn nghĩa là tụ.» Bởi vì một cực vi đơn nhất không có tính chất là một tụ.

Thuyết khác nói: uẩn là cái mang gánh nặng việc phải làm.168 Hoặc nó có nghĩa là cái khả phân.169 Như có câu nói: «Tôi sẽ cho, nếu được trả ba uẩn.»170

Cả hai thuyết này đều mâu thuẫn với Kinh. Vì Kinh nói, chính nghĩa của tụ là nghĩa của uẩn, rằng: «Những gì là sắc, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại, v.v…» Trong đó từng sắc riêng biệt, hoặc quá khứ, v.v… được xác nhận là uẩn.

Phải chăng tất cả sắc quá khứ v.v… này, từng cái riêng biệt là uẩn? Không thể nhận thức như vậy. Vì Kinh nói rằng, «Tất cả cái này được tóm lược thành một cái đơn nhất.»171 Vì vậy, cũng như tụ, các uẩn là giả hữu.

b. Xứ thục hữu

Nếu vậy, các sắc xứ cũng được quan niệm là giả hữu,172 vì là cửa xuất hiện do nhiều cực vi họp thành con mắt các thứ?

Không phải vậy. Vì từng cực vi một là tác nhân của toàn thể. Nếu không, do sự cộng đồng hợp tác với cảnh vực, nên căn không thể là một xứ riêng biệt.173

Nhưng các nhà Vaibhāṣika174 nói rằng, khi một vị Abhidharmika quan niệm uẩn là giả, vị ấy nói cực vi là bộ phận của một giới, một xứ, một uẩn. Khi không quan niệm là giả, vị ấy nói, cực vi là một giới, một xứ, một uẩn. Thật vậy, ở nơi một phần mà giả thiết là toàn phần.[36] Như nơi một phần cái áo bị cháy mà nói là cái áo cháy.


2. Ý hướng thiết lập

i. Tổng lập ba khoa

Tại sao Đức Thế Tôn thuyết pháp bằng ba khoa uẩn, xứ, giới này?

Luận nói, đối với những hạng cần được giáo hóa,

[20c-d] Ngu si, căn tính, và sở thích đều có ba, do đó thuyết pháp bằng uẩn v.v…

Nói là có ba, nghĩa là có ba hình thái khác nhau.175 Theo truyền thuyết, có ba hình thái ngu si của các chúng sinh. Một số ngu mê về tâm và tâm sở, chấp toàn khối là tự ngã. Một số ngu mê sắc.176 Một số khác ngu mê cả sắc và tâm.

Căn tính cũng có ba.177 Căn sắc bén, căn trung bình và căn chậm lụt.

Sở thích cũng có ba: thích sự trình bày tóm lược; thích trung bình, và thích trình bày diễn rộng.

Theo thứ tự đó, có ba mục thuyết pháp: uẩn, xứ và giới.


ii. Thành phần của uẩn

Lại nữa, tại sao các tâm sở được đặt trong một hành uẩn; nhưng thọ và tưởng được đặt thành uẩn riêng biệt?

[21] Vì là gốc rễ của đấu tranh; vì là nguyên nhân của luân hồi; và vì lý do thứ tự.

Do đó, từ các tâm sở, thọ và tưởng được lập thành hai uẩn riêng biệt.

1/ Có hai gốc rễ của sự đấu tranh178: đam mê dục vọng và tham chấp quan điểm.179 Theo thứ tự, thọ và tưởng là nguyên động lực của chúng. Thật vậy, do sự chi phối bởi vị ngọt của cảm thọ, chúng ôm chặt những tham dục; và do tưởng điên đảo, chúng bám chặt lấy các quan điểm.

2/ Cả hai cũng là nguyên nhân của luân hồi. Thật vậy, do tham chấp cảm thọ, và do quan điểm điên đảo mà nó luân chuyển sinh tử.

3/ Nguyên do cho thứ tự của các uẩn sẽ được giải thích sau. Ở đây, cũng do nguyên nhân thứ tự này, nên biết, thọ và tưởng được lập thành uẩn riêng biệt. Chúng ta sẽ khảo sát thứ tự này trong ba trường hợp.180
iii. Vô vi và uẩn

Nhưng, ở đây, tại sao pháp vô vi được đề cập trong giới và xứ, mà không trong uẩn?

[22a-b] Vô vi không được đề cập trong các uẩn. Vì ý nghĩa không phù hợp.

1/ Khi đề cập vô vi trong các uẩn, thì không làm sao có thể an lập vô vi trong các uẩn ấy; vì ý nghĩa không tương hợp. Thật vậy, vô vi không phải là sắc, cho đến, cũng không phải là thức.181

2/ Cũng không thể nói đên uẩn thứ sáu.182 Bởi đâu? Vì ý nghĩa không tương hợp. Vì “uẩn nghĩa là tích tụ» như đã nói; vô vi không thể được phân tích thành quá khứ, v.v… như sắc các thứ, để rồi tổng lược tất cả thành một «vô vi uẩn.»

3/ Nói thủ uẩn, là vì mục đích nêu rõ cơ sở của ô nhiễm. Nói uẩn, là để nêu rõ cơ sở của của ô nhiễm và thanh tịnh. Cả hai điều này đều không có ý nghĩa tương hợp với vô vi; do đó, vô vi không thể được an lập trong đó.

4/ Thuyết khác nói, cái ghè vỡ không còn là cái ghè. Cũng vậy, uẩn đã diệt không thể là uẩn.183 Theo đó, giới và xứ cũng được chứng minh như vậy.184

Đã nói xong các hình thái của uẩn.


iv. Thứ tự của uẩn

[22b-d] Lại nữa, thứ tự, cũng như ý nghĩa của thô, nhiễm và khí cụ; và tùy theo giới.

1/ Sắc, vì có tính đối kháng (sapratighatva), thô hơn tất cả.185 Trong các uẩn phi sắc, thọ có biểu hiện thô. Như phát biểu: «Tôi có cảm thọ nơi bàn tay. Tôi có cảm thọ nơi bàn chân.» Tưởng thô hơn hai uẩn sau. Hành thô hơn thức. Như vậy, tùy theo cái nào thô hơn được nói trước.186

2/ Trong vòng luân chuyển vô thủy, nam và nữ yêu thích nhau bởi sắc; rồi chúng đắm đuối vị ngọt của cảm thọ. Do sự đắm đuối này mà có tưởng điên đảo. Tưởng điên đảo ấy do bởi những phiền não (kleśa). Phiền não do bởi tâm nhiễm ô. Đó là thứ tự tùy theo sự nhiễm ô (saṃkleśa-krama).

3/ Tùy theo khí cụ, v.v… nghĩa là tùy theo khí cụ (bhājana), thực phẩm (bhojana), gia vị (vyañjana), đầu bếp (kartṛ) và thực khách (bhotṛ), với thứ tự các uẩn sắc, v.v…

4/ Hoặc tùy theo giới. Dục giới (Kāmadhātu) được đặc trưng bởi sắc như là phẩm chất của dục. Các cõi Thiền được đặc trưng bởi cảm thọ.187 Ba vô sắc đặc trưng bởi tưởng.188 Hữu đỉnh (bhavāgra)189 đặc trưng duy nhất bởi hành (saṃskāra).190 Các uẩn này là những cứ điểm của thức (vijñānasthiti).191 Nói rằng thức an trú trong bốn uẩn này là nêu rõ ý nghĩa thứ tự các uẩn cũng như hạt giống trong đồng ruộng.

Như vậy, có năm uẩn, không ít hơn cũng không nhiều hơn. Và chính bởi nguyên do thứ tự đó, mà thọ và tưởng lập thành các uẩn riêng biệt với hành. Chúng thô hơn; và là nguyên nhân của tuần tự ô nhiễm. Chúng là khí cụ và là gia vị. Và chúng là đặc trưng của hai giới.
v. Thứ tự của xứ và giới

Nay cần nói đến thứ tự của con mắt các thứ của sáu giới và xứ. Tùy theo chúng mà sắp thứ tự của cảnh vực và thức tương ứng.

[23a] Năm [căn] kể trước, vì đối tượng của chúng là hiện tại.

Năm căn, bắt đầu là con mắt, được kể trước, vì chúng có cảnh vực hiện tại. Nhưng cảnh vực của ý thì bất định. Có khi là cảnh vực hiện tại; cho đến, có khi là cảnh vực trong cả ba thời, hay phi thời.

[23b] Bốn căn đầu, vì đối tượng là đại chủng phái sinh.

Nói tiếp theo đoạn trên. Lại nữa, trong năm căn, bốn được kể trước vì có cảnh vực là đại chủng phái sinh (bhautika). Nhưng cảnh vực của thân thì bất định. Có khi là đại chủng; có khi là đại chủng phái sinh; có khi là cả hai.

[23c] Còn lại, theo hoạt động tầm xa và nhanh hơn.

Lại nữa, trong số các căn còn lại, tùy theo sự thích hợp, căn nào có tầm hoạt động xa hơn và nhanh hơn được kể trước. Mắt và tai có cảnh vực xa hơn, nên hai căn này được kể trước. Trong hai căn này, mắt có tầm hoạt động xa hơn. Vì tuy đã thấy con sông từ xa nhưng không nghe tiếng của nó. Vì vậy, mắt được kể trước. Cả mũi và lưỡi đều không có tầm hoạt động xa. Trong đó, vì vận tốc nhanh hơn nên mũi được kể trước. Khi lưỡi chưa tiếp xúc với thực phẩm mà hương đã được tiếp thu.

[23d] Hoặc thứ tự tùy theo vị trí.

Hoặc, ở trong thân thể, hai con mắt chiếm vị trí cao nhất. Dưới nó là tai. Dưới đó nữa là mũi. Dưới nữa là lưỡi. Phần lớn thân căn ở dưới hết. Ý không có định vị, mà y cứ các căn trên. Đó là thứ tự theo vị trí.


vi. Khái niệm sắc xứ (rūpāyatana) và pháp xứ (dharmāyatana)

Lại nữa, tại sao trong mười xứ, được bao gồm trong sắc uẩn, riêng một xứ được nói là sắc xứ?192 Và trong tất cả tự thể của pháp, riêng một xứ được nói là pháp xứ?193

[24] Vì mục đích giản biệt, vì lý do ưu thế, vì bao hàm nhiều pháp; và vì tối thượng.

Một xứ được gọi là sắc xứ, và một là pháp xứ.

Thế nào là vì mục đích giản biệt? Trong mười xứ, từng cái một đều được nhận là xứ nhưng được xác lập theo từng cảnh vực và sở hữu chủ của cảnh vực194 chứ không theo tổng thể.195

Sắc nào196 không được gọi tên là con mắt, được phân biệt với con mắt các thứ khác nhau, nó được gọi tên là sắc xứ chứ không gọi tên khác.

Hoặc do ưu thế của sắc xứ. Thật vậy, do tính chất có đối kháng, nó bị băng hoại khi được xúc chạm bởi sự xúc chạm bằng tay. Và do tính chất khả hiển thị, nghĩa là có thể được chỉ điểm197 «Nó ở đây; nó ở kia.» Vả, thế gian cũng công nhận cái này, chứ không phải những cái khác, là sắc.198

Do mục đích phân biệt sai khác mà một xứ, chứ không phải tất cả, được gọi là pháp xứ.

Và lại nữa, ở đây nó bao hàm nhiều pháp, như thọ các thứ, do đó nó được lập một tên chung với từ pháp (dharma).

Nói là tối thượng (agra), vì trong đây, chứ không phải nơi khác, bao hàm cả pháp Niết-bàn.

Thuyết khác199 nói, do tính cách thô hiển với hai mươi hình thái, và do là hoạt trường của ba loại mắt: mắt thịt, mặt trời và mắt tuệ, nó được gọi là sắc xứ.200
vii. Khái niệm pháp uẩn (dharmaskandha)

Các từ biểu thị uẩn, xứ, giới khác cũng được tìm thấy trong các Kinh. Nên hiểu là chúng được bao hàm trong uẩn, xứ, giới ở đây, hay nên nói là không?

Chúng được bao hàm ở đây, chứ không phải là không.

[25] Đức Muni đã tán vịnh tám nghìn pháp uẩn;

Tùy theo chúng là ngữ hay danh mà được bao hàm trong sắc hay hành.

Với những vị mà bản thể của Phật ngôn là ngữ âm (vāk)201, thì với những vị ấy chúng được bao hàm trong sắc uẩn. Với những vị mà bản thể là danh từ (nāma)202, với những vị ấy chúng được bao hàm trong hành uẩn.203

Lại nữa, lượng của pháp uẩn như thế nào?

[26a] Có thuyết nói, đó là lượng của Luận.

Có thuyết nói rằng, đó là lượng của Luận Abhidharma, có tên là Dharmaskandha.204 Lượng ấy là sáu nghìn.

Thuyết khác nói,

[26b] Mỗi nghị luận là một uẩn, v.v…

Uẩn (skandha), xứ (āyatana), giới (dhātu), duyên khởi (pratītya-samutpāda), Thánh đế (satya), thực phẩm (āhāra), thiền (dhyāna), vô lượng tâm (apramāṇa), vô sắc (ārūpya), giải thoát (vimokṣa), thắng xứ (abhibhvāyatana), biến xứ (kṛtsnāyatana), bồ-đề phần (bodhipākṣika), thắng trí (abhijñā), vô ngại giải (pratisaṃvit), nguyện trí (praṇidhi-jñāna), vô tránh (araṇā), v.v… mỗi một luận nghị (kātha) là một pháp uẩn.

[26c-d] Nhưng, pháp uẩn được giải thích theo sự đối trị tập tính.205

Thế nhưng, chúng được nhận định như sau: Có tám mươi nghìn tập tính206 của chúng sinh được phân loại theo tập tính tham, sân, si, mạn, v.v… Để đối trị, Đức Thế Tôn đã nói tám mươi nghìn pháp uẩn.

Cũng như tám mươi nghìn pháp uẩn được bao hàm trong năm uẩn này,207

[27] Cũng vậy, các uẩn, xứ, giới khác, tùy theo sự thích ứng,

Được đề cập trong những cái như đã nói, quan sát yếu tính của chúng.

Những uẩn, xứ, giới khác được nói trong các Kinh, tùy theo cách nói thích hợp, cũng được bao hàm trong các uẩn, xứ, giới ở đây, sau khi khảo sát bản chất của chúng như đã được thiết lập trong Luận này.

Trong đây, trong năm uẩn: giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến;208 giới uẩn được bao hàm trong sắc uẩn. Còn lại, trong hành uẩn.

Trong mười biến xứ (kṛtsnāyatana)209, tám xứ đầu vì bản chất là vô tham, được bao hàm bởi pháp xứ. Các tùy hành của chúng, vì có bản chất là năm uẩn, bao hàm trong ý và pháp xứ. Cũng vậy, các thắng xứ. Không biến xứ, thức biến xứ, và bốn vô sắc biến xứ kể từ hư không vô biên; chúng có bản chất của bốn uẩn còn lại nên được bao hàm trong ý xứ và pháp xứ. Năm giải thoát xứ,210 mà bản chất là huệ, được bao hàm trong pháp xứ. Các tùy hành được bao hàm trong thanh xứ, ý xứ, pháp xứ. Trong hai xứ, vô tưởng hữu tình được bao hàm trong mười xứ, vì không tồn tại hương và vị xứ. Phi tưởng phi phi tưởng xứ được bao hàm trong ý xứ và pháp xứ.

Như vậy, trong Đa giới kinh,211 có sáu mươi hai giới được giảng thuyết. Nên biết, chúng được tổng nhiếp tùy theo sự thích hợp.
viii. Hai giới đặc biệt

Trong đó, sáu giới được nói đến, tức là địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, hư không giới, thức giới. Trong đó, đặc tính của hai giới chưa được nói đến.

a. Hư không giới (ākāśadhātu)

Phải chăng chính hư không212 được hiểu là hư không giới, và hết thảy thức là thức giới? Không phải vậy; Ngài nói. Vì sao? Ở nơi cửa, nơi lỗ gió, nơi cửa miệng, nơi lỗ mũi,

[28a] Lỗ hổng được quan niệm là hư không giới.

Lỗ hổng được nói ở đây nên hiểu là cái gì?

[28b] Truyền thuyết nói là sáng và tối.

Thật vậy, lỗ hổng không được nhận biết nếu không là sáng hay tối. Vì vậy truyền thuyết nói thể tính của hư không giới là sự sáng và sự tối. Thể tính của sự sáng và sự tối là đêm và ngày. Chính nó được gọi là lân a-già sắc (aghasāmantaka).213

a/ Theo truyền thuyết,214 a-già (agha) là tụ điểm sắc,215 vì nó cực kỳ cản ngại.216 Hư không giới rất gần sự cản ngại ấy.217

b/ Theo thuyết khác,218 nói là a-già, vì ở nơi đây nó không có tính đối kháng chống lại sắc khác, và nó lân cận (sāmantaka) với sắc khác.

b. Thức giới (vijñānadhātu)

[28c] Thức giới, là thức hữu lậu.

Tại sao không kể cả thức vô lậu? Vì sáu giới này được cho là

[28d] Những sở y của sinh mạng.

Thật vậy, các giới này điểm duy trì thường trực (sādhāraṇa)219 bộ sinh mạng (janma) từ tối sơ kết sinh tâm (pratisandhicitta)220 cho đến tử tâm (cyuticitta).221 Các pháp vô lậu thì không như vậy.222 Vì vậy, trong các giới ấy, bốn giới được kể trong các xúc giới (spraṣṭavyadhātu); thứ năm, trong các sắc giới (rūpadhātu); thứ bảy, trong bảy thức giới (vijñānadhātu).223

 

---o0o---




tải về 1.12 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương