A tì Đạt Ma Câu Xá Tập I


Phẩm một - Phân biệt giới



tải về 1.12 Mb.
trang2/8
Chuyển đổi dữ liệu14.06.2018
Kích1.12 Mb.
#39974
1   2   3   4   5   6   7   8

Phẩm một - Phân biệt giới



PRATHAMAṂ KOŚASTHĀNAM

(Dhātunirdeśaḥ)


I. Quy kỉnh
[1] Vị mà tất cả bóng tối đã bị diệt trừ một cách toàn diện1,

Đã vớt thế gian lên khỏi vũng lầy luân chuyển;

Sau khi kính lễ vị Đạo sư như lý như vậy,

Tôi sẽ diễn giải luận Abhidharmkośa.2

Khi muốn tạo luận, với mục đích hiển dương sự vĩ đại của vị Đạo sư của mình, (Luận chủ) trước hết kính lễ vị ấy.

(Đại từ) vị mà3 chỉ đức Phật Thế Tôn.4 Đối với vị ấy, hay do bởi vị ấy, bóng tối đã bị diệt trừ, do đó nói «mà tất cả bóng tối đã bị diệt trừ.» Bóng tối đã bị diệt trừ với mọi hình thái, trong mọi trường hợp, do đó nói, «tất cả bóng tối đã bị diệt trừ một cách toàn diện.» Chính sự vô tri5 là bóng tối, vì nó ngăn không cho thấy đạo nghĩa chân thật.

Duy chỉ Phật Thế Tôn, do chứng đắc phần đối trị6, mới diệt trừ sự vô tri ấy một cách toàn diện khiến nó không còn tái sinh trong tất cả mọi đối tượng nhận thức7. Do đó nói, Ngài đã diệt trừ tất cả bóng tối một cách toàn diện.

Các vị Bích-chi-phật và các vị Thanh văn tất nhiên cũng đã diệt trừ bóng tối trong tất cả mọi trường hợp. Tuy đã diệt trừ sự ngu si ô nhiễm8 nhưng chưa được hoàn toàn, do đó, không phải là «một cách toàn diện.» Thật vậy, các vị này còn có sự vô tri không nhiểm ô đối với các pháp của Phật9, đối với các đối tượng xa vời trong không gian và thời gian, đối với các chủng loại nghĩa lý sai biệt vô hạn.

Sau khi tán thán bằng sự thành tựu phẩm tính tự lợi như vậy, (Luận chủ) tán thán đức Thế Tôn ấy bằng sự thành tựu phẩm tính lợi tha, do đó nói, «đã vớt thế gian lên khỏi vũng lầy luân chuyển.» Vòng luân chuyển10 thực sự là nơi mà thế gian bị dính mắc, khó vượt thoát, do đó nói là vũng sình. Do vì thương xót thế gian chìm đắm ở đó, không thể vượt qua, đức Thế Tôn, tùy trường hợp thích ứng, bằng sự diễn giải Chánh pháp, giống như chìa ra bàn tay để cứu vớt.

«Sau khi kính lễ» nghĩa là sau khi cúi đầu kính lễ vị đã thành tựu các phẩm tính tự lợi và lợi tha như vậy.

«Như lý sư» (yathārthaśāstra) là vị giảng dạy đạo nghĩa như thực, không điên đảo. Bằng ý nghĩa này Luận chủ nêu rõ phương tiện thực hành lợi tha. Đức Thế Tôn là vị Đạo Sư đã cứu vớt thế gian lên khỏi vũng sình luân chuyển bằng sự thuyết giáo như thực chứ không phải bằng thần thông, ân huệ, uy lực.

Sau khi kính lễ như vậy, sẽ làm gì? Luận chủ nói, «Tôi sẽ diễn giải luận.» Vì để giáo dục các môn đệ nên gọi là «Luận» (Śāstra). Luận gì? Luận Abhidharmakośa.

Abhidharma này là gì?
---o0o---
II. Định nghĩa abhidharmakośa

a. Abhidharma

[1a] Abhidharma là huệ vô nhiễm11 và những tùy hành của nó.

Huệ (prajñā) ở đây là sự tư trạch pháp12. Vô nhiễm (amala) chỉ cho vô lậu (anāsrava). Tuỳ hành13 chỉ cho tùy tùng của nó14. Tóm lại, năm uẩn vô lậu (anāsravaḥ pañcaskandhako) được nói là Abhidharma. Đó là Abhi­dharma theo nghĩa siêu việt15. Nhưng nói theo nghĩa thường nghiệm16 thì

[1b] Và những huệ và luận mà nhằm chứng đắc huệ ấy.

Và những huệ, ở đây chỉ các huệ hữu lậu được tác thành do nghe, do tư duy, do tu tập (śruta-cintābhāvanāmayī), và do bẩm sinh (upa­patti­pratilambhika), cùng với các tùy hành của chúng. Và Luận17 mànhằm mục đích chứng đắc huệ vô lậu ấy cũng được gọi là Abhidharma, vì là tư cụ của nó.

Theo ngữ nguyên, do duy trì yếu tính tự thân (svalakṣaṇa) nên nó được gọi là pháp18. Pháp được gọi là Abhidharma là pháp siêu việt tức Niết-bàn, hoặc chỉ cho pháp đối diện19 với yếu tính của pháp (dharmasvalakṣaṇa).

Đã nói xong nghĩa của Abhidharma.



b. Kośa

Luận này vì sao được gọi là Abhidharmakośa?

[2cd] Theo nghĩa lý của nó mà nó được đưa vào20 trong đây,

Và nó cũng là sở y của đây, nên gọi đây là Abhidharmakośa.

Luận mà tiêu danh là Abhidharma, theo ý nghĩa đặc sắc thì Abhidharma được đưa vào trong Luận này nên Luận là bao chứa (kośasthānīya) của Abhidharma21. Hoặc Abhidharma là sở y của Luận, là xuất xứ của Luận, cho nên Abhidharma là kho chứa (kośa) của Luận22. Vì vậy, Luận này được gọi là Abhidharmakośaśāstram.
---o0o---
III. Ý hướng abhidharma
Do ý hướng gì mà Abhidharma được giảng thuyết? Và ai là người đầu tiên công bố mà Luận chủ cung kính diễn giải? Tụng nói:

[3] Ngoại trừ sự giản trạch về các pháp, không có

Phương tiện đặc sắc nào để dứt sạch các ô nhiễm.

Do bởi ô nhiễm mà thế gian lang thang trong biển hữu.

Vì vậy, theo truyền thuyết, Abhidharma đã được Đức Đạo Sư giảng thuyết.

Nếu không do sự giản trạch pháp (dharmapravicaya)23 thì không có phương tiện ưu việt nào để dứt sạch các phiền não. Chính do phiền não mà thế gian lang thang trong biển hữu này. Do bởi nguyên nhân này, với mục đích là tư trạch pháp, mà, theo truyền thuyết (kila)24, đức Đạo Sư, tức là Phật, đã giảng nói Abhidharma. Thật vậy, nếu Abhidharma không được giảng dạy thì các đệ tử không có khả năng tư duy giản trạch các pháp. Nhưng Đức Thế Tôn nói Abhidharma một cách rải rác; rồi Đại đức Kātyāyanīputra cùng các vị khác tập hợp lại và ổn định. Cũng như Đại đức Dharmatrāta tập hợp các bài kệ tụng lại làm thành phẩm «Udānavagga.» Các nhà Vaibhāṣika nói như vậy.


---o0o---

Tiết 1 : Tổng luận pháp

I. Bản thể của pháp


A. Tụng văn PHẠN VĂN

sāsravānāsravā dharmāḥ saṃskṛtā mārgavarjitāḥ/

sāsravā āsravās teṣu yasmāt samanuśerate//4/

anāsravā mārgasatyaṃ trividhaṃ cāpy asaṃskṛtam/

ākāśaṃ dvau nirodhau ca tatrākāśam anāvṛtiḥ//5/

pratisaṁkhyānirodho yo visaṃyogaḥ pṛthak pṛthak/

utpādātyantavighno’nyo nirodho’pratisaṃkhyayā//6/

HÁN VĂN

有漏無漏法 除道餘有為

於彼漏隨增 故說名有漏

無漏謂道諦 及三種無為

謂虛空二滅 此中空無礙

擇滅謂離繫 隨繫事各別

畢竟礙當生 別得非擇滅

VIỆT DỊCH

Các pháp là hữu lậu và vô lậu.

Các pháp hữu vi, trừ đạo đế,

Là hữu lậu, do bởi các lậu

Tiềm phục trong đó. 

Vô lậu là đạo đế,

Cùng với ba pháp vô vi

Là hư không và hai diệt.

Ở đây, hư không là sự không cản ngại.

Diệt do tư trạch là những gì

Thoát ly hệ phược cá biệt và cá biệt.

Ngoài ra, sự trở ngại khiến vĩnh viễn không sinh khởi

Là diệt không do tư trạch.
---o0o---
B. Luận thích

1. Tổng thuyết

Những gì là pháp mà, vì mục đích giản trạch chúng, Abhidharma được giảng thuyết? Luận nói:

[4a] Các pháp là hữu lậu và vô lậu.

Đây là tất cả pháp được tổng thuyết.


2. Hữu lậu

Trong đây, những gì là pháp hữu lậu (sāsrava)25?

[4b] Các pháp hữu vi, trừ đạo đế,

Là hữu lậu,

Trừ Đạo đế (mārgasatya), tất cả pháp hữu vi (saṃskṛta) còn lại là hữu lậu. Vì sao?

[4c-d] (Là hữu lậu), do bởi các lậu

Tiềm phục trong đó.

Thật vậy, các lậu (āsrava) cũng sinh khởi do vin bám vào Diệt và Đạo đế, nhưng chúng không tiềm phục (anuśerate)26 trong đó, do đó cả hai không phải là hữu lậu. Những gì không tiềm phục như trong đây sẽ được nói rõ trong phẩm «Tuỳ miên» ở sau.


3. Vô vi

Những gì là vô lậu?

[5a-b] Vô lậu là đạo đế,

Cùng với ba pháp vô vi

Ba pháp ấy là gì?

[5c] Là hư không và hai diệt.

Những gì là hai? Là diệt do tư trạch27 và diệt không do tư trạch. Ba vô vi này, hư không và hai diệt, cùng với Đạo đế, là các pháp vô lậu. Vì sao? Vì các lậu không tiềm phục trong đó.

a. Hư không vô vi

Ba vô vi đề cập đó,

[5d] Ở đây, hư không là sự không cản ngại.

Tự thể của hư không28 là sự không cản ngại (anāvaraṇa)29, mà trong đó sắc lưu hành.

b. Trạch diệt vô vi

[6a-b] Diệt do tư trạch là những gì

Thoát ly hệ phược

Những gì thoát ly hệ phược30 đối với hữu lậu được gọi là trạch diệt (pratisaṃkhyānirodha) tức diệt do tư trạch. Diệt đạt được do bởi huệ đặc sắc31 mà tư duy, lý giải32 một cách cá biệt đối với các Thánh đế khổ, v.v..., đó là diệt do tư trạch. Cũng như từ «xe bò»33 được lập thành do lược bỏ các hạng từ ở giữa.

Phải chăng chỉ có một sự diệt do tư trạch cho tất cả các pháp hữu lậu? Luận nói: không. Vì sao?

[5b] cá biệt và cá biệt34.

Thật vậy, có bao nhiêu thực thể bị hệ phược (saṃyogadravya)35 thì có bấy nhiêu thực thể được thoát ly hệ phược. Nếu không như vậy, thì khi thân chứng sự tịch diệt đối với các phiền não được đoạn trừ trong giai đoạn thấy Khổ đế, khi ấy cũng thân chứng sự tịch diệt đối với tất cả phiền não. Nếu thế, sự tu tập về đối trị sai biệt là vô ích.

Ở đây được nói rằng diệt là phi đồng loại (asabhāga); điều này có nghĩa là gì? Điều này muốn nói rằng không có cái gì là đồng loại nhân (sabhāgahetu) của nó, và nó không phải là đồng loại nhân của cái gì, chứ không phải là không có đồng loại.36
---o0o---
C. Phi trạch diệt vô vi
[6c-d] Ngoài ra, sự trở ngại khiến vĩnh viễn không sinh khởi

Là diệt không do tư trạch.

Khác với diệt do thoát ly hệ phược, diệt do trở ngại khiến các pháp vị lai vĩnh viễn không sinh khởi là diệt không do tư trạch hay phi trạch diệt (apratisaṃkhyānirodha). Nghĩa là, diệt đạt được không do tư trạch, mà là do thiếu điều kiện.

Cũng như khi con mắt và ý tập trung trên một đối tượng là sắc, thì những gì không phải là sắc, tức thanh, hương, vị và xúc, chìm mất; khi ấy năm thức thân (vijñānakāya) vốn lấy đó làm đối tượng sẽ không thể sinh khởi; vì chúng không thể vin bám vào những cảnh vực quá khứ. Như vậy, đối với chúng, diệt không do tư trạch mà có được là do thiếu điều kiện.

Ở đây, có bốn trường hợp:

1/ Có những pháp mà đối với chúng trạch diệt được sở đắc; đó là các pháp hữu lậu thuộc quá khứ và hiện tại có xu hướng sinh khởi.

2/ Có những pháp mà đối với chúng là phi trạch diệt; đó là các pháp hữu vi vô lậu không có xu hướng sinh khởi.

3/ Có những pháp là cả hai; đó là các pháp hữu lậu không có xu hướng sinh khởi.

4/ Có những pháp không là cả hai; đó là những pháp vô lậu thuộc quá khứ, hiện tại, không có xu hướng sinh khởi.

Đã nói xong ba pháp vô vi.


---o0o---

II. Pháp thường nghiệm


A. Tụng văn

PHẠN VĂN

te punaḥ saṃskṛtā dharmā rūpādiskandhapañcakam/

ta evādhvā kathāvastu saniḥsārāḥ savastukāḥ//7/

ye sāsravā upādāna­skandhās te saraṇā api

duḥkhaṃ samudayo loko dṛṣṭasthānaṃ bhavaś ca te //8/

 

HÁN VĂN

又諸有為法 謂色等五蘊

亦世路言依 有離有事等

有漏名取蘊 亦說為有諍

及苦集世間 見處三有等



VIỆT DỊCH

Lại nữa, các pháp hữu vi ấy

Là năm uẩn, gồm sắc, v.v...

Chúng cũng là thế lộ, ngôn y,

Là hữu ly, hữu sự.

Hữu lậu là các thủ uẩn.

Chúng cũng là những cái hữu tránh.

Là khổ, tập, thế gian,

Là kiến xứ, và hữu.
---o0o---
B. Luận thích

1. Hữu vi

a. Định nghĩa 

Tụng văn nói, «Các pháp hữu vi, trừ đạo đế, là hữu lậu.» Các pháp hữu vi này là những gì?

[7a-ba] Lại nữa, các pháp hữu vi ấy, là năm uẩn, gồm sắc, v.v...

Sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn; đây là các pháp hữu vi (saṃskṛta), được tập hợp, được tổ hợp (sametya, sambhūya), chúng được tác thành do bởi các điều kiện, do đó chúng được gọi là hữu vi, cái được tập hợp thành. Thật vậy, không có bất cứ cái gì được sản sinh do một điều kiện duy nhất. Do tính chất cùng chủng loại của nó nên không có gì là trái ngược trong các thời vị lai, như sữa được vắt (dugdha)37.

b. Đồng nghĩa

[7c-d] Chúng cũng là thế lộ, ngôn y, là hữu ly, hữu sự.

1/ Các pháp hữu vi này cũng được gọi là thế lộ (adhvan)38, vì chúng đã đi, đang đi và sẽ đi; hoặc vì chúng bị sự vô thường nuốt chững.

2/ Ngôn (kathā)39 tức ngôn ngữ. Chất liệu (vastu)40 của ngôn ngữ là danh từ (nāma). Hữu vi được gọi là ngôn y, chất liệu của ngôn luận (kathāvastu), vì nó nắm giữ chất liệu có ý nghĩa. Nếu không như vậy thì mâu thuẫn với Prakraṇagrantha. Luận này nói, «Những chất liệu của ngôn luận được bao quát bởi mười tám giới41

3/ Ly (niḥsaraṇa) tức thoát ly (niḥsāra)42, là Niết-bàn của tất cả các pháp. Các pháp hữu vi đều có tính chất thoát ly này do đó nói là hữu ly (saniḥsāra).

4/ Do tính chất có nguyên nhân, nên nói là hữu sự (savastuka)43. Sự (vastu) là từ đồng nghĩa của nhân (hetu); đó là truyền thuyết của Vaibhāṣika.

Đó là các dị danh của pháp hữu vi.
2. Hữu lậu

Lại nữa, các pháp hữu vi này:



a. Thủ uẩn (upādānaskandha)

[8a-b] Hữu lậu là các thủ uẩn.

Ở đây, nó được thiết lập như thế nào? Các thủ uẩn (upādānaskandha)44 cũng là các uẩn (skandha). Nhưng cũng có các uẩn mà không phải là các thủ uẩn. Đó là các hành vô lậu (anāsravāḥ saṃskārāh)45.

Ở đây, các thủ (upādāna) là các phiền não (kleśa).46 Hoặc uẩn phát sinh từ thủ, nên nói là thủ uẩn; như nói: lửa rơm.47 Hoặc uẩn lệ thuộc thủ nên nói là thủ uẩn; như nói: vương thần.48 Hoặc các thủ phát sinh từ các uẩn nên nói là thủ uẩn; như nói: cây hoa.49



b. Hữu tránh (saraṇa)

Các pháp hữu lậu này cũng được nói



[8c] Là những cái hữu tránh.

Tránh hay đấu tranh (raṇa) chỉ cho các phiền não. Vì chúng gây tổn hại cho mình và cho người khác50, và vì phiền não ẩn phục trong đó51, nên nói là hữu tránh; như nói «hữu lậu.»

c. Và các tên khác

Lại nữa:


[8c-d] Là khổ, tập, thế gian, kiến xứ, và hữu.

1/ Vì nghịch ý các bậc Thánh, nên nói là khổ (duḥkha).

2/ Khổ phát sinh từ đó nên nói là tập (samudaya).

3/ Vì bị băng hoại, nên nói là thế gian52.

4/ Các kiến chấp trụ ở đây, tiềm phục ở đây, nên nói là kiến xứ (dṛṣṭisthāna)53.

5/ Nó hiện hữu, nên nói là hữu.54

Đó là những dị danh của hữu lậu.
---o0o---

III. Phân tích uẩn


A. Tụng văn

PHẠN VĂN

rūpaṃ pañcendriyāṇy arthāḥ pañcāvijñptỉr eva ca/

tadvijñānāśrayā rūpaprasādāś cakṣurādayaḥ//9/

rūpaṃ dvdhā viṃśatidhā śabdas tv aṣṭavidho rasaḥ/

ṣoḍhā caturvidho gandhaś spṛśyam ekādaśātmikam//10/

vikṣiptācittakasyāpi yo’nubandhaḥ śubhāśubhaḥ/

mahābhūtāny upādāya sa hy avijñaptỉ ucyate//11/

bhūtāni pṛthivīdhāuur aptejovāyudhātavaḥ/

dhṛtyādikarmasaṃsiddhāḥ kharasnehoṣṇateraṇāḥ//12/

pṛthivī varṇasaṃsthānam ucyate lokasaṃjñayā/

āpas tejaś ca vāyus tu dhātur eva tathāpi ca//13/

caturbhyo’ nye tu saṃskāraskandhaḥ ete punas trayaḥ/

indriyārthās ta eveṣṭā daśāyatanadhātavaḥ/

vedanānubhavaḥ saṃjñā nimittodgrahaṇātmakā//14/

caturbhyo’ nye tu saṃskāraskandhaḥ ete punas trayaḥ/

dharmāyatanadhātvākhyāḥ sahāvijñaptyasaṃskṛtaiḥ//15/

vijñānaṃ prativijñaptir manaāyatanaṃ ca tat/

dhātavaḥ sapta ca matāḥ ṣaḍ vijñānāny atho manaḥ//16/

ṣaṇṇām anantarātītaṃ vijñānaṃ yad dhi tan manaḥ/

śaśṭāśrayaprasiddhyarthaṃ dhātavo’ ṣṭādaśa smṛtāḥ//17/



HÁN VĂN

色者唯五根 五境及無表

彼識依淨色 名眼等五根

色二或二十 聲唯有八種

味六香四種 觸十一為性

亂心無心等 隨流淨不淨

大種所造性 由此說無表

大種謂四界 即地水火風

能成持等業 堅濕煖動性

地謂顯形色 隨世想立名

水火亦復然 風即界亦爾

此中根與境 即說十處界

受領納隨觸 想取像為體

四餘名行蘊 如是受等三

及無表無為 名法處法界

識謂各了別 此即名意處

及七界應知 六識轉為意

由即六識身 無間滅為意

成第六依故 十八界應知

VIỆT DỊCH

Sắc gồm năm căn, năm cảnh, kể cả vô biểu.

Con mắt v.v... là tịnh sắc của sắc, sở y của thức tương ứng.

Sắc có hai loại hay hai mươi loại. Nhưng thanh chỉ có tám.

Vị có sáu loại. Hương có bốn loại. Xúc có mười một tự thể.

Đối với những ai loạn tâm, kể cả vô tâm, những gì là liên tục, tịnh hoặc bất tịnh,

Được tác thành bởi bốn đại chủng, những cái ấy được gọi là vô biểu.

Đại chủng là bốn giới: đất, nước, lửa, gió.

Chúng tác thành chức năng duy trì, v.v... Cứng, dính, ấm, và lay động.

Đất được nói đến với sắc màu và hình thể, theo quan niệm của thế gian.

Nước và lửa. Nhưng gió cũng chính là giới. Và cũng như vậy.

Các căn và cảnh này được xem là mười xứ và giới.

Thọ là sự cảm nghiệm. Tưởng có bản chất là nắm bắt ấn tượng.

Khác với bốn uẩn là hành uẩn. Lại nữa, ba uẩn này

Cùng với vô biểu, vô vi, được gọi là pháp xứ và pháp giới.

Thức, là nhận thức cá biệt; và đó là ý xứ;

Và là bảy ý giới, tức sáu thức cùng với ý.

Sáu thức của quá khứ không gián cách, thật sự đó là ý.

Với mục đích lập thành sở y cho thức thứ sáu, nên nhớ, có mười tám giới.
---o0o---
B. Luận thích
1. Sắc uẩn (rūpaskandha)

i. Tổng lược

Nói rằng «năm uẩn: sắc, v.v...» ở đây,

[9a-b] Sắc gồm năm căn, năm cảnh, kể cả vô biểu.

Năm căn (pañcendriyāni)55: mắt, tai, mũi, lưỡi, và thân. Năm cảnh (pañcārthās)56, những đối tượng tương ứng của các căn con mắt, v.v... là năm cảnh vực: sắc, thanh, hương, vị, và xúc. Cùng với vô biểu (avijñapti), cho đến mức ấy là sắc uẩn (rūpaskandha).

Ở đây, đã nói năm đối tượng: sắc, v.v...

ii. Năm căn (pañcendriyāṇi)

[9c-d] Con mắt v.v... là tịnh sắc của sắc, sở y của thức tương ứng.

Những gì là sở y của nhận thức tương ứng57 với sắc, thanh, hương, vị và sở xúc, chúng là năm loại tịnh sắc58 mà tự thể là sắc. Nên biết, theo thứ tự, đó là: mắt, tai, mũi, lưỡi và thân. Như Thế Tôn có nói: «Con mắt, này Tì-kheo, là nội xứ, là tịnh sắc được tác thành với bốn đại chủng.»

Hoặc, các căn con mắt v.v... là các tịnh sắc làm sở y cho thức tương ứng, tức là thức con mắt v.v... như đã nói. Đó là ý nghĩa nói rằng (tịnh sắc) là sở y của thức con mắt, v.v... Nói như vậy là phù hợp với luận Prakaraṇagrantha,59 theo đó: «Con mắt là gì? Là tịnh sắc của sắc, làm sở y cho thức con mắt.»

Đã nói xong năm căn.
iii. Năm cảnh (arthāḥ pañca)

Đây sẽ nói về năm cảnh, theo đó:

a. Sắc

[10a] Sắc có hai loại.



Đó là sắc màu60 và hình thể.61 Trong đó, sắc màu có bốn thứ: xanh, v.v... Các màu khác là những phân biệt từ chúng. Hình thể có tám: bắt đầu là dài, và cuối cùng là không phẳng.

Các sắc này cũng được nói là sắc xứ (rūpāyatana).

[10a] hay hai mươi loại

Tức là, xanh, vàng, đỏ, trắng; dài, ngắn, vuông, tròn, cao, thấp, phẳng, không phẳng; mây, khói, bụi, mù, bóng, màu nắng, màu sáng, bóng tối. Có người kể thêm da trời62 là màu thứ mười một.63

Trong đây, phẳng (sātam) là hình thể bằng phẳng.64 Không phẳng là hình thể không bằng phẳng.. Mù (mahikā) tức sương mù (nīhāra)65. Sáng nóng (ātapa)66 tức ánh sáng mặt trời. Sáng ánh (āloka)67 tức ánh trăng, ánh sao, ánh lửa, ánh sáng châu ngọc. Bóng (chāyā)68 có ở nơi nào xuất hiện sắc. Trái lại là bóng tối (andhākara). Những từ còn lại thì dễ hiểu nên chỉ nói gọn.

Có loại sắc xứ (rūpāyatana) chỉ có sắc màu mà không có hình thể69. Đó là, xanh, vàng, đỏ, trắng, bóng, sáng nóng, sáng ánh, bóng tối.

Hoặc có hình thể nhưng không có sắc màu. Đó là, bộ phận có hình thể dài v.v... là tự thể của thân biểu (kāyavijñapti)70.

Tất cả sắc xứ còn lại gồm cả hai.

Có vị nói, chỉ màu nắng và ánh sáng là sắc màu. Bởi vì xanh, đỏ các thứ được nhìn thấy theo các hình thể dài, ngắn, v.v...

Làm sao trong một thực thể lại tồn tại cả hai?71 Vì ở đây có tri thức đối với thức cả hai. Trong đó, động từ căn vid hàm nghĩa nhận thức (prajñāna), chứ không phải tồn tại (satta)72.

Đã nói xong sắc xứ.

b. Thanh

[10b] Nhưng thanh chỉ có tám

Cơ bản có bốn, được: thanh có nguồn gốc từ các đại chủng có cảm thụ73 hoặc không cảm thụ (upāttānupāttamahābhūtahetuka), thuộc hữu tình hoặc phi hữu tình (sattvāsattvākhya)74. Mỗi loại hoặc thích ý, hoặc không thích ý (manojñāmanojña), phân thành tám loại thanh.75

Trong đó, thanh có nguồn gốc từ đại chủng, có cảm thụ như là tiếng phát từ bàn tay, từ tiếng nói. Thanh có nguồn gốc các đại chủng không cảm thụ, như là tiếng gió, tiếng rừng cây, tiếng suối nước. Thuộc hữu tình là thanh của biểu hiện ngôn ngữ (vāgvijñapti)76. Ngoài ra là phi hữu tình.

Có thuyết cho rằng có loại thanh có nguồn gốc từ đại chủng có cảm thụ và cả không cảm thụ. Đó là thanh phát ra từ tay và trống. Điều này không được chấp nhận vì không có một cực vi của sắc màu hình thành hai tổ hợp của bốn đại chủng.

Đã nói xong về thanh.



c. Vị

Vị có sáu loại.

Đó là, ngọt, chua, mặn, cay, đắng, nhạt.

d. Hương

[10c] Hương có bốn loại.

Bởi vì mùi thơm và mùi thối hoặc bình hoặc gắt. Nhưng trong Bản luận77 chỉ kể có ba loại: thơm, thối và bình78.

e. Xúc

[10d] Xúc có mười một tự thể.

Có mười một tự thể được xúc chạm79: bốn đại chủng, trơn, nhám, nặng, nhẹ, lạnh, đói, khát. Trong số đó, các đại chủng sẽ được nói sau. Trơn (ślakṣṇatva) tức là mềm dịu (mṛdu)80. Nhám (karkaśa) tức thô cứng (paruṣtā). Nặng (gurutva) là cái mà do đó vật thể được cân. Trái lại là nhẹ (laghu). Lạnh (śīta) là sự muốn ấm. Đói (jighatsā) là sự muốn ăn. Đó là hậu quả được giả lập theo nguyên nhân. Như nói:

«Phước lạc thay là sự xuất hiện của Chư Phật.

«Phước lạc thay là sự diễn thuyết của Chánh pháp.

«Phước lạc thay là sự hòa hiệp của Tăng-già.

«Phước lạc thay là sự cần tu của đại chúng.»81

Ở đây, trong sắc giới (rūpadhātu) không có sự đói và sự khát. Những cái khác vẫn tồn tại. Vả lại, trong sắc giới, từng cái một thì y phục không cân được, nhưng tập hợp lại thì được. Truyền thuyết82 nói, trong cõi này, cái lạnh tổn hại không có, nhưng cái lạnh hữu ích thì vẫn có.

Trên đây đã nói đến nhiều loại sắc, trong đó, có khi thức con mắt khởi lên với một vật thể duy nhất, đó là khi mà hình thái của vật thể ấy được phân biệt riêng rẻ. Có khi với nhiều vật thể; đó là khi không có sự phân biệt riêng rẻ. Chẳng hạn, khi nhìn từ xa một tổ hợp hình thể và sắc màu của một đoàn quân hay một đống châu ngọc.83

Thức của tai v.v... cũng nên biết như vậy.

Tuy nhiên, thuyết khác nói, thức của thân sinh khởi với tối đa năm xúc. Tức là, với bốn đại chủng và một trong các xúc khác, như trơn, v.v... Thuyết khác lại nói, tối đa tất cả là mười một xúc.84

Nếu vậy, năm thức thân thủ đắc các cảnh vực có tính phổ quát (sāmānya-lakṣaṇa)85 chứ không phải các cảnh vực cá biệt (svalakṣaṇa), vì đối tượng vốn là tập hợp?

Không có sai lầm ấy. Cảnh vực cá biệt được hiểu là cá biệt tính của môi trường (āyatana: xứ) chứ không phải là cá biệt tính của vật thể (dravya: sự).86

Điều này cần được suy nghiệm. Căn của thân và của vị cùng một lúc thủ đắc cảnh, thực tế thức nào hiện khởi trước? Thức nào có đối tượng mạnh hơn. Nếu là đối tượng quân bình, thức vị giác khởi trước. Bởi vì xu hướng muốn ăn là cốt duy trì thân.

Đã nói xong đối tượng của năm căn và sự nắm bắt chúng.
iv. Vô biểu

Nay sẽ nói về vô biểu87.

[11] Đối với những ai loạn tâm, kể cả vô tâm, chuỗi liên tục, tịnh hoặc bất tịnh,

Được tác thành bởi bốn đại chủng, thật vậy, những cái ấy được gọi là vô biểu.



Loạn tâm (vikṣipta), chỉ tâm khác với tâm này88Vô tâm (acittaka), chỉ tâm nhập vô tưởng định (asaṃjñisamāpatti) và diệt tận định (nirodha-samāpatti). Từ kể cả (api), chỉ kể luôn cả không loạn tâm và hữu tâm. Chuỗi liên tục (anubandha)89, chỉ dòng tiếp nối liên tục (pravāha)90Tịnh và bất tịnh, chỉ thiện và bất thiện.

Trong thiện và bất thiện, để phân biệt với sự tương tự của dòng chảy của đắc (prāpti)91, nên nói là được tác thành bởi bốn đại chủng. Các nhà Vaibhāṣika92 nói, nghĩa của sự được tác thành (upādāya) là nghĩa của nhân (hetu). Vì là nhân của sanh v.v...93 Đó là vô biểu. Từ «thật vậy» (hi) chỉ nguyên nhân có danh từ vô biểu. Vô biểu tuy có tự thể là tác nghiệp của sắc như hữu biểu (vijñapti) nhưng nó không biểu thị cho người khác nhận thức. Từ «được nói,» (ucyate) bày tỏ lời của Sư phó (ācārya).94

Tóm lại, vô biểu là sắc hoặc thiện hoặc bất thiện phát sanh bởi biểu (nghiệp) hay định (sāmadhi).
v. Đại chủng (mahābhūta)

a. Bốn nguyên tố

Nói rằng «được tác thành từ các đại chủng.» Vậy, đại chủng là gì?

[12a-b] Đại chủng là bốn giới: đất, nước, lửa, gió.

Bốn yếu tố này do duy trì95 sắc phái sinh (upādāyarūpa)96 và yếu tính cá biệt, nên gọi là giới (dhātu)97. Bốn giới này được gọi là bốn đại chủng98. Nói là «đại» vì là sở y cho hết thảy sắc khác; vì sự thô lớn của nó. Hoặc vì khối lớn tổ hợp trong các khối tụ tập chuyển biến tăng thịnh của đất, nước, lửa, gió.99

b. Chức năng

Chức năng của các giới này là gì? Tự thể của chúng là gì?

[12c] Chúng tác thành chức năng duy trì, v.v...

Chức năng của chúng, theo thứ tự của các giới, là duy trì, cố kết, thành thục và phát triển. Vả lại, phát triển được hiểu là phân bố và khuếch trương. Đó là các chức năng của chúng.



c. Tự thể

Về tự thể, theo thứ tự:

[12d] Cứng, dính, ấm, và lay động.

Cứng là tự thể của đất. Dính, của nước. Ấm, của lửa. Lay động là của gió. Do bị lay động mà dòng chảy của các nguyên tố được chuyển dịch đến vị trí khác để sinh khởi. Cũng như nói về sự lay động của ngọn đèn.

Trong các Prakaraṇa100 và trong Kinh có nói: «Giới của gió là gì? Là trạng thái nhẹ.» Prakaraṇa cũng nói: «Trạng thái nhẹ là sắc phái sinh.» Pháp mà tự thể là trạng thái lay động, đó là gió. Đó là theo chức năng mà nói về tự thể.

d. Quy ước

Sự khác nhau giữa đất và giới đất là thế nào?

[13a-b] Đất được nói đến với sắc màu và hình thể, theo quan niệm của thế gian.

Thật vậy, để biểu thị đất, sắc màu và hình thể được biểu thị. Cũng như đất, cũng vậy.

[13c] Nước và lửa.

Sắc màu và hình thể này được nói đến theo quan niệm của thế gian.

[13c-d] Nhưng gió cũng chính là giới.

Thế nhưng, chính giới là gió này cũng là thứ gió được nói đến trong thế gian.

[13d] Và cũng như vậy.

Cũng như nói đất là nói sắc màu và hình thể theo thế gian; và nói về gió cũng như vậy. Như nói, gió lam (nīlakā vātyā)101, gió tròn (maṇḍalikā vātyā)102.
vi. Khái niệm sắc

Vì sao sắc này, cho đến cuối cùng vô biểu, được nói là «sắc uẩn»? Vì là cái bị băng hoại (rūpaṇa)103. Như Thế Tôn nói: «Nó bị băng hoại, nó bị băng hoại, này các Tì-kheo, do đó, nó được gọi là sắc thủ uẩn. Nó bị băng hoại bởi cái gì? Nó bị băng hoại khi được xúc chạm bởi tay, hay bởi đá.»104 Nó bị băng hoại, nghĩa là nó bị bức hoại105. Thật vậy, như được nói trong Arthavargīya106:

«Với những ai khát khao dục vọng;

Mà khi các dục vọng ấy không được thỏa mãn,

Người ấy bị băng hoại

Như bị trúng tên độc.»

Vả, thế nào là sự bức hoại đối với sắc?107 Đó là khi phát sinh sự biến dị (vipariṇāma)108.

Thuyết khác nói, nó bị đối kháng bởi sắc109.

Nếu vậy, ở đây, sắc cực vi (paramāṇurūpa)110 không trở thành sắc, vì không bị băng hoại. Quả vậy111, nhưng sắc cực vi không tồn tại đơn độc cá biệt. Tồn tại trong hợp thể nên nó cũng bị băng hoại.

Nếu vậy, những gì thuộc quá khứ và vị lai không trở thành sắc? Nó cũng là sắc, vì đã, và sẽ biến hoại112; và vì cùng chủng loại. Như củi.

Nếu vậy, vô biểu không trở thành sắc? Nó cũng là sắc. Vì do sự băng hoại của biểu sắc mà nó trở thành cái bị băng hoại. Như do sự di động của cây mà ảnh cũng di động. Không đúng; vì vô biểu không bị biến thái (avikāra)113. Hoặc khi biểu biến mất thì vô biểu cũng biến mất. Như cây và bóng cây.

Thuyết khác giải thích: do sự băng hoại của sắc làm sở y.114 Nếu vậy, thức con mắt v.v... cũng được xem là sắc, vì do sự băng hoại của sở y? Nạn vấn này không chính xác. Ở đây, vô biểu y trên các đại chủng mà tồn tại, cũng như ảnh y cây; ánh sáng y châu ngọc. Nhưng sự kiện, thức con mắt v.v... y trên căn con mắt v.v... mà tồn tai, thì không như vậy. Các căn duy chỉ là dấu hiệu cho sự sinh khởi (utpattinimitta)115 của thức116.

Nhưng, nói rằng ảnh y nơi cây, ánh sáng y nơi châu ngọc mà tồn tại; đây không phải là thuyết của Vaibhāṣika. Vaibhāṣika nói, mỗi một cực vi cho sắc màu của bóng cây các thứ đều y chỉ trên bốn đại chủng của tự thân. Và nếu có sự y chỉ ấy, thì sự y chỉ của bóng cây, và ánh sáng châu ngọc không được áp dụng cho vô biểu. Bởi vì, dù các đại chủng, là sở y của vô biểu, dù có diệt nhưng vô biểu vẫn không diệt. Cho nên, đó chưa phải là giải đáp.

Lại có giải đáp khác: cần phân biệt sở y của thức con mắt v.v... Có cái bị băng hoại, như con mắt các thứ. Có cái không băng hoại, như ý117. Nhưng vô biểu thì không phải vậy. Vì vậy, kết luận không giống nhau. Vậy, như điều đã nói, nói là sắc, vì nó băng hoại.

Đã nói xong sắc uẩn.
---o0o---
2. Các uẩn phi sắc
i. Tổng hợp uẩn xứ giới của sắc

Chính các tự thể sắc uẩn đã được nói ấy,

[14a-b] Các căn và cảnh này được xem là118 mười xứ và giới.

Trong phạm vi của xứ119, có mười xứ: môi trường của con mắt,120 môi trường của sắc,121 cho đến, môi trường của thân,122 và môi trường của xúc.123 Trong phạm vi của giới124, chính chúng cũng là mười giới: giới của con mắt, giới của sắc, cho đến giới của thân và giới của xúc.

Đã nói xong sắc uẩn, và xứ, giới của sắc.

Nay sẽ nói đến thọ các thứ. Trong đó,


ii. Thọ uẩn (vedanāskandha)

[14c] Thọ là sự cảm nghiệm.

Có ba trạng thái cảm nghiệm125 được gọi là thọ uẩn: khổ, lạc, và phi khổ phi lạc. Thêm nữa, cần phân biệt có sáu tổ hợp của thọ126: thọ phát sinh từ sự xúc chạm của con mắt, cho đến, thọ phát sinh từ sự xúc chạm của ý.
iii. Tưởng uẩn (saṃjñāskandha)

[14d] Tưởng có bản chất là nắm bắt ấn tượng.

Sự nắm bắt các ảnh tượng127 xanh, vàng, dài, ngắn, nam, nữ, khổ và phi khổ các thứ, đó là tưởng uẩn. Thêm nữa, cần phân biệt sáu tổ hợp của tưởng128 cũng như thọ.
iv. Hành uẩn (saṃskāraskandha)

[15a-b] Khác với bốn uẩn là hành uẩn.

a. Hành tức ý chí

Ngoài các hành thuộc bốn uẩn là sắc, thọ, tưởng và thức, các hành còn lại là hành uẩn. Nhưng trong Kinh Thế Tôn nói: «Có sáu tư thân.»129 Đó là nói theo ưu thế của nó. Thật vậy, do bản sắc hành động, các hành có ưu thế là tạo tác. Vì vậy, Thế Tôn cũng có nói: «Nó tác thành hữu vi, do đó nó được gọi là hành thủ uẩn.»130 Nếu không như vậy,131 còn lại các tâm sở và các hành không tương ưng tất không thuộc về Khổ và Tập đế, và do đó không thể được thấu triệt và được đoạn trừ. Và Thế Tôn đã nói: «Nếu một pháp132 không được thâm nhập, không được thấu triệt, Ta nói, không thể tận cùng giới hạn của khổ.» Cũng nói như vậy, về «Không được đọan trừ.»133

Do đó, một cách tất yếu, các pháp này cần được chấp nhận là thuộc vào hành uẩn.

b. Tổng hợp uẩn, xứ, giới của pháp

[15b] Lại nữa, ba uẩn này

Trong phạm vi của xứ và giới, ba uẩn thọ, tưởng và hành.

[15b-d] Cùng với vô biểu, vô vi, được gọi là pháp xứ và pháp giới.

Bảy thực thể này được nói là pháp xứ và pháp giới.134


v. Thức uẩn (vijñānaskandha)

a. Định nghĩa

[16a] Thức, là nhận thức cá biệt;

Sự tri nhận,135 sự tiếp thu từng cảnh vực riêng biệt, được nói là thức uẩn. Thêm nữa, có sáu tổ hợp của thức;136 thức con mắt, cho đến, ý thức.

b. Ý xứ (manāyatana)

Thức uẩn được đề cập ở đây, trong phạm vi của xứ,

[16b] và đó là ý xứ;

c. Ý giới (manodhātu)

Trong phạm vi của giới, chính nó

[16c] Và là bảy ý giới.

Những gì là bảy?

[16d] Tức sáu thức cùng với ý.

Đó là, giới của thức con mắt, cho đến giới của ý thức, và giới của ý.

Chính nơi năm uẩn như vậy mà nói về mười hai xứ và mười tám giới. Ngoại trừ vô biểu, sắc uẩn gồm mười xứ và mười giới.

Thọ, tưởng và hành, ba uẩn này, cùng với vô biểu và các vô vi, là pháp xứ và pháp giới.

Thức uẩn là ý xứ, sáu thức giới, và ý giới.

d. Tự thể của ý giới

Sáu tổ hợp của thức được nói là thức uẩn. Vậy, ngoài những pháp này, cái gì là ý giới? Không có pháp gì khác, mà chính các thức ấy.

[17a-b] Sáu thức của quá khứ không gián cách137, thật sự đó là ý.

Tất cả thức vừa diệt, không gián cách, đều được gọi là ý giới. Cũng như người này là con nhưng đối với người khác y là cha. Hoặc nó là quả, nhưng đối với cái khác nó là hạt giống. Cũng vậy, thức ấy có tên gọi là ý giới.

Nếu vậy, thực tế chỉ có mười bảy giới, hay mười hai mà thôi.138 Bởi vì sáu thức giới và ý giới bao hàm lẫn nhau, làm sao thiết lập mười tám giới?

Thật vậy, nhưng,

[17c-d] Với mục đích lập thành sở y cho thức thứ sáu, nên nhớ, có mười tám giới.

Năm thức giới có năm sở y là giới xứ con mắt các thứ. Ý thức giới thứ sáu không có sở y nào khác. Do đó, vì mục đích thành lập sở y cho nó mà ý giới được chỉ định. Như vậy với sự thiết lập sáu năng y, sáu sở y và sáu đối tượng mà có mười tám giới.

Nếu vậy, tối hậu tâm139 của A-la-hán sẽ không phải là ý; vì không có tâm nào có thể là quá khứ không gián cách? Không phải vậy. Vì tâm tối hậu ấy cố định với bản chất là ý, nhưng vì khiếm khuyết các nguyên nhân khác nên thức tiếp theo không sinh khởi.
---o0o---  



tải về 1.12 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương