Như chúng ta đã biết, định nghĩa của thuật ngữ ‘bhūmi’ tức địa theo nghĩa đen là “quả đất, vị trí, nền tảng, căn cứ, đất, v.v...”, và theo nghĩa bóng là “cấp độ, vị trí, trình độ, trạng thái của thức...” dường như không đòi hỏi bất cứ giải thích nào. Tuy nhiên, chưa có sự nhất trí giữa giới học giả về số lượng chính xác và triết lý của các bhūmi (địa- 地).
Theo học giả Har Dayal, N. Dutt và một số khác, ở hình thái ban đầu số lượng của bhūmi (địa) được khẳng định một cách chắn chắn là bảy, như đã được đề cập trong kinh Laṇkāvatāra (Lăng Già Tâm Ấn), và bộ Bodhisattva-bhūmi (Bồ-tát địa). Về sau, số lượng của địa phát triển thành mười, bắt đầu từ Dasabhùmika-sūtra (kinh Thập Địa) và tập Mahāvastu, nhưng các kinh trên không đưa ra bất cứ lời bình luận nào đối với ba địa được thêm vào sau, tương tự trường hợp của ba pāramīta sau cùng trong giáo lý Ba-la-mật. Lý do đó hẳn nhiên đã hàm chứa một quan điểm triết lý nhất định, nên người ta cũng đđã nêu lên một số bình luận về chúng, tuy thế vẫn chưa thuyết phục cho lắm. Học giả Har Dayal gợi ý rằng nguyên nhân của sự ra đời của bảy bhūmi trong kinh điển của Phật giáo Bắc Truyền (Mahāyāna) có thể được xem như là một bước phát triển từ giáo lý Thượng Tọa Bộ (Theravāda) về bốn thiền (four stages) và ba minh (three vihāras)14. Gợi ý trên nghe có vẻ khá hợp lý, nếu số lượng về các bhūmi (địa) được giới hạn trong con số bảy; tuy nhiên, sự thật không phải như thế. Theo lời bình luận của học giả lão thành S. Radhakrishnan, sự nghiệp của hành giả khao khát đạt tới quả vị Phật theo sự trình bày của Nguyên Thủy Phật giáo là Bát Chánh hay Thánh Đạo (Con đường Thánh tám ngành) được các nhà Phật học Bắc Truyền khai triển thành mười bhūmi (Thập địa)15. Rõ ràng giải thích của S.Radhakrishnan đã thật sự bày tỏ sự yếu kém và miễn cưỡng nếu chúng ta so sánh ý nghĩa ngôn ngữ của hai nhóm thuật ngữ trên. Đó là, Bát Thánh Đạo nhằm chỉ đến phương tiện hay phương thức tu tập để chứng đắc thánh quả; trong khi ấy bhùmi hay địa nhằm trỏ đến chính thánh quả. Kết quả tất yếu là giải thích trên không thể chấp nhận được. Bộ Bách Khoa Phật giáo cho rằng khái niệm về bhūmi được xem như là hệ quả từ cuộc tranh luận giữa hai bộ phái Phật giáo về bốn cấp độ hay cảnh giới thiền định của Tiểu thừa Phật giáo (Hīnayāna) như là đối nghịch với mười cảnh giới thiền định của Đại thừa Phật giáo (Mahāyāna). Sáu cảnh giới thiền đầu đưa đến việc chứng ngộ về sự không hiện hữu của cái ngã (ngã không) nhằm thỏa mãn ước muốn tâm linh của các nhà Phật học Tiểu thừa, và bốn cảnh giới sau cùng nhắm đến việc chứng đắc sự không hiện hữu của tất cả các pháp (pháp không), vượt quá phạm vi của giới Phật giáo Tiểu thừa, là một cống hiến thật sự của các nhà Đại thừa Phật giáo16. Bằng việc nối kết học thuyết pudgalaśūnyatā (nhân vô ngã) và dharma-
sūnyatā (pháp vô ngã) để so sánh và giải thích sự khác nhau giữa bốn cấp độ Thiền định của Phật giáo Thượng Tọa Bộ (Theravāda) và mười Bhūmi (Thập địa) của Phật giáo Phát Triển, rõ ràng giải thích trên dường như thiếu tính luận lý (logic) và không cân đối. Theo thiển ý của tác giả, khái niệm Dasa-bhūmi (Thập địa) rất có thể là kết quả của sự đơn giản hóa, phổ thông hóa và cụ thể hóa từ giáo lý chín cảnh giới Thiền định như được đề cập trong kinh tạng Nikāya. Như mọi người đã biết, giáo lý chín cảnh giới hay chín cấp độ thiền là một trong những chủ đề quan trọng nhất trong sự nghiệp tu hành của Phật giáo, đưa đến các cấp độ giải thoát tâm linh khác nhau. Không chỉ giới Phật tử được khích lệ thực hành chúng, mà bất cứ ai chứng đắc một cách hoàn hảo chín cấp độ thiền định đó đều được công nhận là hoàn thành quả vị Phật. Lập luận này sẽ trở nên đầy thuyết phục ngang qua việc minh họa trích ra từ chính lời dạy của đức Phật:
“Cho đến khi nào, này Ananda, chín thứ đệ trú Thiền chứng này chưa được Ta thuận thứ nghịch thứ chứng đạt và xuất khởi, thời này Ananda, trong thế giới này, với Thiên giới, Ma giới, với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người, Ta chưa xác chứng rằng Ta đã chứng Chánh đẳng Chánh giác. Cho đến khi nào, này Ananda, chín thứ đệ trú Thiền chứng này đã được Ta thuận thứ nghịch thứ chứng đạt và xuất khởi, thời này Ananda, trong thế giới này, với Thiên giới, Ma giới, Phạm Thiên giới, với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn và loài Người, cho đến khi ấy, Ta mới xác chứng rằng Ta đã chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Tri và Kiến khởi lên nơi Ta: ‘Bất động là tâm giải thoát của Ta. Đây là đời sống cuối cùng, nay không còn tái sanh nữa17”.
Nói cách khác, sau khi chứng đắc hoàn toàn chín cấp độ thiền định trên, Phật quả như là địa vị thứ mười, tức cấp độ cuối cùng được đạt đến một cách tự nhiên mà không cần bất cứ nỗ lực tương ứng nào như trong chín trường hợp trước. Biểu đồ so sánh giữa hai hệ thống giáo lý Phật giáo trong một vài trang sắp tới sẽ làm chúng ta vô cùng ngạc nhiên và thú vị, vì kết quả so sánh giữa giáo lý chín (hoặc có thể nói mười) cấp độ thánh quả của Thượng Tọa Bộ với giáo lý Dasa-bhūmi (Thập địa) của Phật giáo Phát Triển đã biểu hiện nhiều sự giống nhau hơn là khác biệt. Tuy thế, một vài giải thích về lý do và phương cách mà giới triết gia Phật giáo đã đơn giản hóa, phổ thông hóa và cụ thể hóa giáo lý chín loại thiền của Phật giáo Thượng Tọa Bộ thành giáo lý Thập địa của Phật giáo Bắc Truyền cần phải được đề cập tại đây. Người ta có thể giả định rằng những lời dạy trong kinh điển của Thượng Tọa Bộ về các pháp môn khác nhau dẫn đến nhiều cấp độ giải thoát tương ứng dường như không còn được quần chúng Phật tử bị ảnh hưởng giáo lý của đa thần giáo ưa thích nhiều nữa, vì một số thuật ngữ chuyên môn của nó, như là bằng cách đoạn trừ năm triền cái (năm điều gây chướng ngại), gồm hôn trầm, thụy miên, dục, sân, nghi; hành giả có thể chứng đắc cảnh giới thiền thứ nhất với năm nhân tố thiền (thiền chi), tức tầm (đặt sự chú ý vào một chỗ), tứ (dán chặt sự chú ý vào đối tượng đã chọn), hỷ, lạc, nhất tâm18 v.v..., đã trở nên khô khan và thiếu hấp dẫn đối với họ. Nói khác đi, nếu giới triết gia Phật giáo mong muốn giáo lý của đức Phật được truyền bá một cách thông suốt giữa quần chúng tín đồ trong môi trường tôn giáo như thế thì một vài sự mô phỏng nào đó từ giáo lý nguyên thủy nhằm để khế hợp với sở thích của con người đương thời cần phải được sáng tác như là một đòi hỏi khẩn thiết. Trong thực tế, khái niệm Dasa-bhūmi (Thập địa) với mười Pāramīta (Ba-la-mật) tương ứng, giúp người ta dễ dàng hiểu được và thực hành được, có thể xem như là hệ quả của nỗ lực nói trên. Lập luận này hy vọng sẽ trở nên rõ ràng hơn khi cách sử dụng ngôn ngữ của chín loại thiền và mười cảnh giới được đưa vào nghiên cứu. Trước tiên, như chúng ta đã biết, về phương diện tâm lý, chín hay mười cấp độ giải thoát trong Phật giáo Thượng Tọa Bộ được xem như là những trạng thái khác nhau về cấp độ giải thoát của tâm từ thấp đến cao. Chúng là kết quả từ nỗ lực tương ứng của người hành trì; tương tự với trường hợp mười địa (Dasa-bhūmi), trong ý nghĩa là tầng bậc hay trạng thái của tâm thức như đã được định nghĩa ở phần đầu của chương ba của tác phẩm này. Thứ đến, mối quan hệ đầy ý nghĩa giữa hai giáo lý trên là phương pháp truyền bá giáo lý. Nghĩa là, thay vì giảng dạy chín (hoặc mười) cấp độ thiền định truyền thống của kinh tạng Pàli với nhiều thuật ngữ chuyên môn khá khó khăn để lãnh hội đối với quần chúng bình dân, và phương pháp tu tập ấy còn đòi hỏi nỗ lực cao độ của người hành trì, hàng trí giả Phật giáo thật sự đã hiến tặng cho giới tín đồ của họ một món quà trí tuệ bằng việc giới thiệu giáo lý Dasa-bhūmi (Thập địa) và mười pāramīta (Ba-la-mật). Giải thích một cách cụ thể hơn, trên nền tảng cấu trúc của giáo lý Thượng Tọa Bộ, giới triết gia, học thuật Phật giáo đã giúp tín đồ của họ tiếp tục duy trì truyền thống tu tập và chứng ngộ qua việc đơn giản hóa và phổ thông hóa ngôn ngữ, phương pháp và mục đích. Hiệu năng của việc làm ấy có thể thấy được như sau: Thay vì đang bị ép bức nặng nề dưới môi trường tín ngưỡng đa thần, không những Phật giáo đã cùng tồn tại với thế giới tôn giáo đương đại, mà còn có thể phát triển một cách có hiệu quả và tốt đẹp. Nhìn qua công trình nghiên cứu so sánh song song hai biểu đồ dưới đây về các cấp độ thiền định giữa Phật giáo Thượng tọa bộ và Phật giáo Phát Triển trong lãnh vực phương pháp và kết quả hy vọng sẽ làm cho giả thuyết của chúng ta trở nên hợp lý và đáng được chấp nhận.
-
Hoan hỷ địa (Pramudita bhumi) : vượt khỏi địa vị phàm phu, chấm dứt đời sống thế tình, hướng đến đời sống xuất thế, an trú vào bình đẳng tánh của Bồ tát, thiện trú trong vị trí Bồ tát, cuối cùng sẽ thành Phật. Khi đạt được cấp độ này, vị Bồ tát có hân hoan, tín, hỷ, thượng hỷ, cực hỷ, tinh tấn, không có mạn, bất hại và vô hận.
-
Vô cấu địa (Vimala bhumi) : ở cấp độ này, vị Bồ tát không còn sát sanh, thâu đạo, tà dâm, vọng ngữ, ác khẩi, ỷ ngữ, không còn hà tiện, không sân hận và thành tựu chánh kiến.
-
Phát quang địa (Prabhakari) : vị Bồ tát chứng được sự vật vô thường, đầy đau khổ, sanh diệt trong từng sát na, vô thủy vô chung và bị lý nhân duyên chi phối, chứng được Như lai trí, phát tâm tinh tấn cứu độ chúng sanh.
-
Diệm Huệ địa (Arcismati bhumi) : chứng 10 pháp quang (dharmalokas), nghĩa là sau khi chứng hiểu chúng sanh giới, thế giới, pháp giới, không giới, thức giới, dục giới, sắc giới, vô sắc giới, cao thượng ý nguyện giới và đại ý nguyện giới. Vị này cùng thành tựu các đặc tính sau : tin tưởng chân thành vào Tam bảo, nhận thức rõ ràng tính sinh diệt của các pháp hữu vi, thực hành bất sinh của sự vật, khứ lai của thế giới, của luân hồi, niết bàn, hành động của chúng sanh trong mọi giới.
-
Cực nan thắng địa (Sudurjaya bhumi) : Tu tập thanh tịnh bình đẳng tâm nguyện, liên hệ đến những vấn đề : giáo lý của chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai, giới định tuệ, đoạn trừ tà kiến và nghi, hiểu hết chánh đạo và tà đạo, thực hành các phẩm Bồ đề giác chi.
-
Hiện tiền địa (Abhimukhi bhumi) : thành tựu các đạo, chứng 10 bình đẳng tánh : vô tướng, vô tánh, vô khởi, vô sanh, thoát lý, thanh tịnh từ ban đầu, vô hý luận, bất thủ bất xả, giống như huyễn mộng, vọng thanh, và phi hữu phi vô.
-
Viễn hành địa (Durangama) : thành tựu 10 phương tiện trí bát nhã (N.Dutt. p 387)
-
Bất động địa (Acala bhumi) : an trú vào 4 đức : chân, thí, tịch và trí ; hiểu rõ mọi pháp là bất sanh bất diệt, bất tăng bất giảm, tự tánh không có thật, hiểu được như thật tánh (tathata) của mọi vật, an trú vô sanh pháp nhẫn (anutpattikadharmaksanti) ; chứng được các pháp là bất tư duy, vô quán niệm (anabhoga). Bồ tát nhớ lại hững đại nguyện xưa của mình là pháp tánh (dharmata), nỗ lực để chứng được vô lượng thân, trí, thế giới, hào quang, âm thanh v.v…
-
Thiện huệ địa (Sadhumati bhumi) : biết chính xác các pháp thiện, bất thiện, vô ký, thanh tịnh, không thanh tịnh, thế tục, siêu việt, định pháp, bất định pháp, hữu vi, vô vi. Ở cấp độ này, Bồ tát biết một cách tỉ mỉ mục đích và đức tánh của mỗi chúng sanh và có thể quyết định phương phấp hướng dẫn chúng sanh đến đích. Bồ tát vẫn tu tập hạnh balaparamita (lực ba la mật), và nếu muốn Bồ tát có thể trở thành Đại phạm thiên -Maha brahma.
-
Pháp vân địa (Dharmamegha) : biết rõ ràng phương cách mà thế giới các pháp thế gian sanh diệt, vô lượng hạnh của đức Phật, vô lượng giải thoát môn của vị Bồ tát, các thiền định và chí thuật. Vị ấy được cụ túc Smrti kausalya (niệm thiện xảo) nên có thể thâu nhận tất cả mây pháp (dharmamegha) do vô lượng Phật thấm nhuần ; vị ấy có thể vận dụng mọi loại thần thông và phát hy trí tuệ ba la mật (jnana paramita). Tại đây, Bồ tát trở thành đức Như Lai (tathagata). Khi Bồ tát ngồi trên tòa sen, hào quang từ chư Như Lai chiếu đến và thọ ký vị Bồ tát thành Sambhuda (Chánh đẳng giác), đầy đủ nhất thiết trí . Do vậy, địa này còn gọi là Như lai địa (Tathagatabhumi- Lankavatara và Satashasrika).
Biểu đồ1: Chín cấp độ Thiền Định của Thượng Tọa Bộ19
STT
|
Ý nghĩa biểu tượng của Thiền
|
Pháp Môn Tu Tập
|
Chứng
Đắc
|
Sự hiện hữu cụa các thiền tâm hay cảm thọ
|
1
|
Các Cảnh ?
Giới
Thiền
Định
Hay
Cấp
Độ
Tâm
Linh
|
Loại bỏ các dục, và các pháp bất thiện
|
Cảnh giới thiền thứ nhất (Sơ thiền)
|
Tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất, tâm, và xúc, thọ, tưởng, tư, tâm, dục, thắng giải, tinh tấn, niệm... tác ý
|
2
|
Loại bỏ tầm và tứ
|
Cảnh giới Thiền thư hai (Nhị thiền)
|
Nội tỉnh, hỷ, lạc, nhứt tâm, và xúc, thọ, tưởng, tư,... tác ý
|
3
|
Loại bỏ hỷ, trú xã, chánh niệm...
|
Cảnh giới thiền thứ ba (Tam thiền)
|
Xã. Lạc, niệm, tỉnh giác, nhất tầm, và xúc, thọ... tác ý.
|
4
|
Xã lạc, xã khổ, diệt khổ ưu đã cảm thọ trước
|
Cảnh giới thiền thư tư (Tứ thiền)
|
Xã, bất khổ bất lạc thọ, thọ, vô quán niệm tâm,..., tác ý.
|
5
|
Vượt lên hoàn toàn sắc tưởng, diệt trừ mọi chướng ngại tưởng, không tác ý đối với dị tưởng
|
Cảnh giới thiền Không vô biên
|
Hư không, vô biên xứ tưởng, nhứt tâm, và xúc,..., tác ý
|
6
|
Vượt lên hoàn toàn Không vô biên xứ
|
Cảnh giới thiền Thức Vô Biên
|
Thức vô biên xứ tưởng, nhất tâm, và xúc..., tác ý
|
7
|
Vượt lên hoàn toàn Thức vô biên xứ
|
Cảnh giới Thiền Vô sở hữu
|
Vô sở hữu xứ tưởng, nhứt tâm, và xúc..., tác ý
|
8
|
Vượt lên hoàn toàn
|
Cảnhgiới thiền Phi
tưởng phi phi tưởng
|
Với chánh niệm xuất khỏi định ấy,..., đối với những pháp ấy cảm thấy không luyến ái, không chống đối, an trú với tâm không hạn chế
|
9
|
Vượt khỏi hoàn toàn Phi tưởng phi phi tưởng xứ
|
Cảnh giới thiền Diệt thọ và
tưởng
|
...với trí tuệ các lậu đã đoạn tận..., biết “không có sự giải thoát nào vô thượng
hơn thế nữa...”
|
Biểu đồ 2: Mười cảnh giới Thiền của Phật giáo Phát Triển
STT
|
Ý nghĩa biểu
tượng của Thiền
|
Pháp Môn Tu Tập
|
Chứng Đắc
|
Sự hiện hữu cụa các thiền tâm hay cảm thọ
|
1
|
Các
Cảnh
Giới
Thiền
Tâm
Hay
Tâm
|
Bố thí ba-la-mật
|
Hoan hỷ địa (Pramudita Bhùmi)
|
Ý niệm giác ngộ sinh ra, cảm thọ hạnh phúc mãnh liệt phát sinh
|
2
|
Trì giới ba-la-mật
|
Vô cấu địa (Vimala-bhùmi)
|
Đạt được các đức tính như thành thật, tâm nhu nhuyến, năng
động, tự kềm chế, an tịnh, giải thoát khỏi các dục
|
3
|
Nhẫn nhục ba-la-mật
|
Phát quang
địa (Prabhàkari bhùmi)
|
Truyền bá diệu pháp với tâm thanh tịnh, kiên cố, phi thế gian, cao thượng
|
4
|
Tinh tấn ba-la-mật
|
Diệm huệ địa (Arcisûmatì bhùmi)
|
Đạt đến lối vào ánh sáng diệu pháp, chín muồi và toàn thiện sự hiểu biết bằng lòng tin và nguyện lực ở Tam Bảo, nhận thức
được các pháp là vô ngã
|
5
|
Thiền định ba-la-mật
|
Cực nan thắng địa (Sudurjayà bhùmi)
|
Đạt được những phẩm chất tuyệt vời về chánh niệm, Thiện xảo trong việc chọn lựa các pháp môn để chứng đắc mục tiêu
|
6
|
Tuệ ba-la-mật
|
Hiện tiền địa (Abhimukhì -bhùmi)
|
Thâm hiểu mười khía cạnh của tính bình đẳng, giải thoát khỏi tính nhị nguyên của hiện hữu và phi hiện hữu
|
7
|
Phương tiện ba-la-mật
|
Viễn hành địa (Dùranûgamà bhùmi)
|
Đạt được đại tuệ trong việc chọn lựa các phương tiện để hóa độ tha nhân,... đạt được giải thoát nhưng không nhập Niết bàn vị hạnh phúc cá nhân
|
8
|
Linh
|
Nguyện ba-la-mật
|
Bất động địa (Acalà bhùmi)
|
Giải thoát khỏi ý niệm nhân và phi nhân, chứng ngộ quá trình tiến hoá và sự phức tạp của vũ trụ... Đạt được thập lực
|
9
|
|
Lực ba-la-mật
|
Thiện huệ
địa (Sadhumatì bhùmi)
|
Hiểu biết tất cả các hiện tượng và nguyên lý một cách chân thật và vững chắc, ... Trở thành vị giảng sư vĩ
đại...
|
10
|
|
Trí ba-la- mật
|
Pháp vân
địa- Dharmamegha-bhùmi
|
Bước vào cấp độ thánh hóa, ... chứng
đắc mười vị giải thoát của Bồ tát
|
-
Học thuyết về tự lực và tha lực (Sukhavati)
-
Quan niệm về Niết Bàn (Conception of Nirvana)
II. Các nhà đại thừa tiêu biểu
1. Nagarjuna (Long Thọ)
2. Maitreyanatha
3. Asanga
4. Vasubhandu
D. Mối liên hệ giữa Nguyên thủy và Đại Thừa:
I. Quan niệm về Sunyata
II. Sự tương đồng về giáo lý Tứ Đế
III. Sự tương đồng về giáo lý Duyên Khởi
IV. Quan niệm về Bồ tát
V. Quan niệm về Paramita
VI. Quan niệm về Nhất thừa (Tứ Niệm Xứ: Độc đạo- Pháp Hoa)
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |