A di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa 阿彌陀經疏鈔演義 Phần 44



tải về 461.13 Kb.
trang3/4
Chuyển đổi dữ liệu25.03.2018
Kích461.13 Kb.
#36545
1   2   3   4

() 以沖年高德,故云童壽。

(Sớ: Do [tuổi còn trẻ] mà đức hạnh cao trỗi như người đã lão thành, nên gọi là Đồng Thọ).

 

Ngài mười hai, mười ba tuổi đã giảng kinh; khi ấy, những vị cao tăng đại đức cùng Ngài biện luận đều chẳng thể thắng Ngài. Tuổi rất trẻ, nhưng học vấn lẫn đức hạnh giống như người trưởng thành, nên mọi người gọi Ngài bằng danh xưng Cưu Ma La, có nghĩa là Đồng Thọ (đứa trẻ già giặn).



 

(Sớ) Ký thông Tam Tạng, đông du Cưu Ty, vương thiết kim sư tử tòa xử chi.

() 既通三藏,東遊龜茲,王設金獅子座處之。

(Sớ: Đã thông suốt Tam Tạng, đi sang phương Đông, [trở về] xứ Cưu Ty, quốc vương bày tòa sư tử bằng vàng thỉnh Ngài ngồi).

 

Sau khi mẹ Ngài xuất gia, bèn dẫn Ngài sang Ấn Độ. Bà mẹ đã chứng Tam Quả, chính Ngài cũng đại triệt đại ngộ. Từ Ấn Độ du học, trở về Cưu Ty, khi ấy, La Thập đại sư hai mươi mấy tuổi. Quốc vương Cưu Ty vô cùng tôn trọng Ngài, cúng dường Ngài bảo tọa sư tử bằng vàng, thỉnh Ngài ở lại nơi ấy giảng kinh, thuyết pháp, coi Ngài như quốc bảo. Thời cổ, Trung Quốc và ngoại quốc giống nhau, coi nhân tài là quốc bảo. Đế vương, đại thần chẳng ai không tôn trọng hiền nhân, lễ hiền hạ sĩ (lễ kính, khiêm tốn đối với bậc hiền nhân, trí thức), xin họ dạy bảo cách cai trị nước nhà. Nói theo cách bây giờ là “tư chánh” (資政: giúp đỡ cai trị), làm cố vấn cho quốc vương. Đây là nói rõ địa vị của Ngài tại Cưu Ty.



 

(Sớ) Phù Kiên cứ Tần, tương sự Tây thảo, thích Thái Sử tấu dị tinh hiện ư Tây Vực phân dã, đương hữu đại đức trí nhân, nhập phụ Trung Quốc.

() 苻堅據秦,將事西討,適太史奏異星現於西域分野,當有大德智人,入輔中國。

(Sớ: Phù Kiên chiếm cứ đất Tần, sắp sửa [đem quân] chinh phạt phía Tây, nhằm lúc ấy, quan Thái Sử tâu có ngôi sao lạ mọc trên phần bầu trời21[21] ở phía Tây Vực, ắt sẽ có bậc đại đức trí huệ, vào giúp Trung Quốc).

 

“Phù Kiên cứ Tần”: Vào thời Nam Bắc Triều, Phù Kiên chiếm cứ vùng Quan Trung22[22], thành lập một quốc gia gọi là Tần. “Tây thảo”: “Thảo” () là “thảo phạt” (討伐). Ông ta rất có dã tâm, vẫn luôn không ngừng mong mở rộng lãnh thổ quốc gia, xâm phạm những thành thị lân cận. Thời cổ coi trọng bói toán, chiêm tinh, nó có ảnh hưởng rất lớn đến quốc gia đại sự. “Thái Sử” là chức quan trông coi việc quan sát hiện tượng thiên văn, ông ta thấy một ngôi sao rất lớn xuất hiện tại phương Tây. Đây là hiện tượng bất thường, bèn tâu lên Tần vương: Phía Tây xuất hiện một ngôi sao lớn. Căn cứ trên sự bói toán, phương Tây có bậc đại đức đại trí huệ đến Trung Quốc, giúp đỡ Trung Quốc.

 

(Sớ) Kiên vân: “Trẫm văn Cưu Ty hữu La Thập giả, đắc phi thử da?

() 堅云:朕聞龜茲有羅什者,得非此耶?

(Sớ: Phù Kiên nói: “Trẫm nghe nói xứ Cưu Ty có ngài La Thập, có phải là người ấy đó chăng?”)

Phù Kiên nói: “Ta nghe nói nước Cưu Ty có một vị tên là Cưu Ma La Thập, có đúng người ấy hay chăng”. Vì sự bói toán này, khi ấy, nhà vua bèn sai người sang Tây Vực nghênh thỉnh ngài Cưu Ma La Thập, thỉnh bậc cao nhân thật sự có trí huệ, có đức hạnh đến phụ trợ quốc gia này; nhưng quốc vương [Cưu Ty] không chịu để cho Ngài đi.

 

(Sớ) Khiển tướng Lữ Quang.

() 遣將呂光。



(Sớ: Phù Kiên sai tướng Lữ Quang).

Năm Kiến Nguyên mười ba (377) thời Phù Kiên, phái đại tướng Lữ Quang dẫn bảy vạn đại quân Tây chinh.

 

(Sớ) Lâm phát, vị viết.

() 臨發,謂曰。

(Sớ: Lúc sắp xuất hành, vua nói).

 

Lúc sắp dẫn quân đi, vua dặn riêng Lữ Quang.



 

(Sớ) Trẫm phi tham địa dụng binh.

() 朕非貪地用兵。

(Sớ: Ta chẳng phải do tham chiếm đất mà dụng binh).

Xuất binh lần này không phải là tham cầu đất đai của người ta, mà cũng chẳng phải là tham cầu vàng, bạc, đồ quý giá.

 

(Sớ) Văn La Thập thâm giải pháp tướng, vi hậu học tông.

() 聞羅什深解法相,為後學宗。

(Sớ: Ta nghe nói La Thập hiểu pháp tướng sâu xa, là bậc tông sư cho hàng hậu học).

 

Ta nghe nói La Thập đại sư hết sức thông đạt Đại Thừa Phật pháp, quả thật có sự ngộ nhập rất sâu, là tông sư cho hàng hậu học. “Tông” là tông sư, là tổ sư trong Phật môn, Nho gia gọi vị ấy là tông sư.



 

(Sớ) Nhược khắc Cưu Ty, tức nghi trì dịch tống Thập.

() 若克龜茲,即宜馳驛送什。

(Sớ: Nếu phá tan Cưu Ty, hãy mau đưa ngài La Thập trở về).

 

Phá được Cưu Ty, thắng trận, hãy lập tức dùng khoái mã (ngựa chạy rất nhanh), chạy tiếp sức từng trạm chẳng ngừng, ngay lập tức đưa pháp sư La Thập về. Bỏ ra bảy vạn đại quân chẳng tiếc nuối, lao sư động chúng23[23] để thỉnh một người. Phù Kiên tôn trọng hiền nhân, đúng là chẳng cần phải tranh cãi nữa! Lữ Quang dẫn đại quân tới nước Cưu Ty. Tuy Cưu Ty là một nước lớn ở Tây Vực, cũng bất quá là một thành mà thôi, không có cách nào chống lại binh Tần. Quân Tần vây kín đô thành nước Cưu Ty, nói rõ nguyên nhân vì sao kéo đến: Do muốn thỉnh người ấy. Vua Cưu Ty rất không vừa lòng, muốn chống lại. La Thập bảo vua Cưu Ty: “Binh lực của chúng ta không bằng người ta, nhất định sẽ thua trận, chẳng biết bao nhiêu người bị tử thương”, khuyên vua Cưu Ty hòa đàm, không nên chiến tranh, Ngài tự theo họ đi. Vua Cưu Ty nghe lời Ngài khuyên. Trong tình hình ấy, Lữ Quang dẫn Cưu Ma La Thập đại sư trở về Trung Quốc, thỉnh đến như thế đó!



 

(Sớ) Cập phá Cưu Ty, tải Thập dĩ quy.

() 及破龜茲,載什以歸。

(Sớ: Đến khi phá được Cưu Ty, chở ngài La Thập về).

Thắng trận, dùng xe chở La Thập đại sư về.

 

(Sớ) Trung đạo, văn Kiên dĩ vi Diêu Trành sở hại, toại chỉ bất phản, Thập sư nhân bất chí Tần.

() 中道聞堅已為姚萇所害,遂止不返,什師因不至秦。

(Sớ: Giữa đường, nghe Phù Kiên đã bị Diêu Trành hại, bèn dừng lại, không trở về [kinh đô Trường An] nữa, do vậy, ngài La Thập chưa đến đất Tần).

 

Lữ Quang về tới Lương Châu, nay thuộc tỉnh Cam Túc, được tin quốc gia có biến cố. Tần vương đánh nhau với Đông Tấn tại Phì Thủy, thua trận. Nói thật ra, ông ta bại trận lần này vì quá kiêu ngạo, đó gọi là “kiêu binh tất bại”. Khi ấy, Phù Kiên dẫn mấy chục vạn quân, phô trương là một trăm vạn, quân đội Đông Tấn tập hợp hết cả lại, tổng cộng chưa đầy mười vạn người. Đấy là “dĩ quả địch chúng” (lấy ít chống đông). Phù Kiên hết sức kiêu ngạo, nghĩ mình ắt chiến thắng, Đông Tấn đâu có lực lượng nào để chống lại ông ta? Không ngờ chính mình bại trận! Sau khi bại trận, quay về, đại tướng dưới quyền là Diêu Trành đảo chánh, giết ông ta để tự mình làm quốc vương. Diêu Trành và Lữ Quang cùng là đại tướng của Phù Kiên, nay Diêu Trành làm quốc vương, Lữ Quang chẳng phục; vì thế, chiếm cứ Lương Châu, lập ra nước Lương tại đó, xưng là Lương Vương. Khi ấy, lực lượng của ông ta khá hùng hậu, Diêu Trành cũng chẳng có cách nào khác. Do vậy, La Thập đại sư không có cách nào đến nước Tần, ở Lương Châu gần ba mươi năm. Lữ Quang biết ngài La Thập là một người lỗi lạc, nhưng chính mình không thể dùng Ngài, lại không dám tha Ngài, vì Ngài là người có trí huệ, sợ Ngài phù tá người khác. Do vậy, giam kín Ngài tại Lương Châu. Mẹ ngài La Thập từng bảo Ngài: “Ngươi và Trung Quốc hữu duyên, nhưng phải chịu tai nạn rất lớn, sẽ gặp cảnh giam cầm”. La Thập thưa cùng mẹ: “Chỉ cần có thể lợi ích chúng sanh, khổ nạn dẫu lớn đến mấy cũng đều ưng chịu”.



 

(Sớ) Hậu Trành diệc văn Sư danh, yếu thỉnh, nhi Quang bất doãn.

() 後萇亦聞師名,要請,而光不允。

(Sớ: Sau này, Diêu Trành cũng nghe danh Sư, muốn thỉnh, nhưng Quang không chấp nhận).

 

Diêu Trành hướng về Lữ Quang yêu cầu, mong có thể thỉnh La Thập đại sư tới Trường An, Lữ Quang không đáp ứng.



 

(Sớ) Trành vong, tử Hưng phục thỉnh, diệc bất doãn.

() 萇亡,子興復請,亦不允。

(Sớ: Diêu Trành mất, con là Diêu Hưng lại thỉnh, Lữ Quang vẫn không chấp nhận).

 

Sau khi Diêu Trành chết, con trai là Diêu Hưng kế vị, lại hướng về nước Lương thỉnh cầu hãy để Cưu Ma La Thập đại sư tới Trường An, nhưng vẫn không được đáp ứng.



 

(Sớ) Nhân khiển binh phạt Quang, Quang điệt hàng Tần, phương đắc nghênh Sư nhập quan, phụng vi quốc sư.

() 因遣兵伐光,光姪降秦,方得迎師入關,奉為國師。

(Sớ: Do vậy, phái quân chinh phạt Quang. Cháu của Quang bèn đầu hàng nước Tần, mới đón được Sư về Quan Trung, tôn làm quốc sư).

 

Khi ấy, Lữ Quang đã chết, cháu trai của Lữ Quang đầu hàng, Diêu Hưng mới có thể nghênh thỉnh La Thập đại sư tới Trường An. Diêu Hưng đối xử với Ngài theo lễ tiết quốc sư, vô cùng tôn kính. Lại còn đem biệt thự của hoàng đế trong vườn Tiêu Dao cúng dường La Thập đại sư, thỉnh Ngài tiến hành công tác dịch kinh. Ngài ở Trường An bảy năm rồi viên tịch. Do vậy, La Thập đại sư tới Trung Quốc hoằng pháp trên thực tế chỉ có bảy năm. Thuở ấy, dịch trường dịch kinh của La Thập đại sư gần như tới tám trăm người, quy mô to lớn, là dịch trường bậc nhất trong lịch sử Trung Quốc. Sau này, dịch trường của Huyền Trang đại sư đại khái là sáu trăm người. Vì Ngài trụ tại Lương Châu một thời gian dài, học tiếng Hán đến nơi đến chốn, những kinh điển do Ngài dịch gần như là văn chương do người Hoa viết. Vì thế, tài nghệ về tiếng Hán của tất cả các pháp sư dịch kinh khác đều chẳng bằng ngài La Thập. Đối với Phật giáo Trung Quốc, Ngài có ảnh hưởng sâu xa, có cống hiến không ai lớn bằng!



 

(Sớ) Sư duyệt cựu kinh, nghĩa đa phi tích, bất dữ Phạn bổn tương ứng.

() 閱舊經,義多紕僻,不與梵本相應

(Sớ: Ngài duyệt những kinh điển đã dịch từ trước, thấy nghĩa lý sai lạc, trúc trắc, chẳng tương ứng với nguyên bản tiếng Phạn).

La Thập đại sư thấy kinh điển được phiên dịch tại Trung Quốc trước đó, nghĩa lý có rất nhiều thiếu sót, có rất nhiều chỗ chẳng viên mãn.

 

(Sớ) Nãi tập sa-môn Triệu, Duệ đẳng bát bách dư nhân, tân dịch kinh luận tam bách cửu thập dư quyển, tịnh sướng thần nguyên, phát huy u trí.

() 乃集沙門肇叡等八百餘人,新譯經論三百九十餘卷,並暢神源,發揮幽致。

(Sớ: Bèn nhóm họp các sa-môn như Tăng Triệu, Tăng Duệ v.v... hơn tám trăm người, dịch lại các bản mới đến hơn ba trăm chín mươi quyển, khiến cho những nguồn cội thần kỳ, mầu nhiệm trở thành thông suốt, nêu tỏ lý thẳm sâu tột cùng).

 

Thuở ấy là lúc nhân tài trong Phật môn cực thịnh, các đời sau không có cách nào hơn được. Những vị như Tăng Triệu, Tăng Duệ đều là những nhân vật lỗi lạc. Lúc ấy, Tăng Triệu đại sư hai mươi mấy tuổi, Ngài thọ mạng rất ngắn, ba mươi mấy tuổi đã qua đời, nhưng thành tựu chẳng thể nghĩ bàn, lưu lại các trước tác như Duy Ma Kinh Chú Giải, Triệu Luận mãi cho đến nay đều vẫn là những tác phẩm đầy uy tín trong Tánh Tông. Tăng Duệ cũng là một trong tứ đại đệ tử của ngài La Thập. Dịch trường của đại sư có hơn tám trăm người, có thể nói là đã tập hợp tinh anh cả nước để tiến hành công tác phiên dịch. Tổng cộng dịch được hơn ba trăm chín mươi quyển kinh luận, mỗi một bộ đều dịch hết sức hay. Người Trung Quốc thường niệm kinh Di Đà, kinh Kim Cang, kinh Pháp Hoa, [những kinh ấy] đều do Ngài phiên dịch. “Phát huy u trí”: “U” () là Lý sâu thẳm qua sự phiên dịch của Ngài đều được hiển lộ rất rõ rệt.



 

(Sớ) Sư vị chung thiểu nhật, tập chúng vị viết: “Nguyện sở tuyên dịch, truyền chi hậu thế, hàm cộng lưu thông, kim ư chúng tiền, phát thành thật thệ, nhược sở truyền vô mậu, đương sử phần thân chi hậu, thiệt bất tiêu lạn.

() 師未終少日,集眾謂曰:願所宣譯,傳之後世,咸共流通,今於眾前,發誠實誓,若所傳無謬,當使焚身之後,舌不焦爛。

(Sớ: Trước khi Sư tịch mấy ngày, nhóm đại chúng, bảo: “Nguyện những kinh điển do tôi tuyên dịch, truyền đến đời sau đều được lưu thông. Nay đối trước đại chúng, phát thệ thành thật, nếu những bản dịch được truyền lại không sai lầm, sẽ khiến cho sau khi hỏa thiêu, lưỡi chẳng cháy tiêu”).

Thuở ấy, La Thập đại sư tới Trung Quốc, Diêu Hưng biết đại sư là người thông minh tuyệt đỉnh, nếu Ngài sanh mấy đứa con, nhất định chúng nó sẽ thông minh tuyệt đỉnh. Ngài là người xuất gia, quốc vương ban cho Ngài mười mỹ nữ, ép Ngài nhất định phải nhận lấy. Truyện ký có chép chuyện ngài La Thập nuốt kim. Ngài dạy học trò trì giới, học trò thấy Ngài như vậy, có kẻ chẳng phục lắm. La Thập đại sư chẳng có cách nào, bất đắc dĩ hiển lộ một chút thần thông, lấy kim thêu bỏ đầy một chén, ăn hết chén kim ấy trước mặt mọi người, nhằm bảo học trò: “Các ông có năng lực giống như ta thì mới có thể bắt chước ta, chưa có năng lực ấy thì hãy ngoan ngoãn trì giới”.



“Vị chung thiểu nhật”: Trước lúc Ngài viên tịch vài bữa, Ngài triệu tập đại chúng, hướng về mọi người tuyên bố, nói rõ những kinh điển do Ngài phiên dịch chẳng có sai lầm, mong muốn những kinh điển ấy có thể lưu thông trong đời sau. “Kim ư chúng tiền”: Đối trước đại chúng phát thệ, nếu kinh điển do Ngài phiên dịch chẳng sai lầm, có thể phù hợp ý Phật, sau khi Ngài đã chết, đem hỏa táng, lưỡi chẳng nát, dùng chuyện này để chứng minh.

 

(Sớ) Dĩ Hoằng Thỉ thập nhất niên bát nguyệt, nhị thập nhật, tuất24[24] ư Trường An.



() 以弘始十一年八月二十日卒於長安。

(Sớ: Ngày Hai Mươi tháng Tám năm Hoằng Thỉ thứ mười một (409), Ngài mất tại Trường An).

 

Lão nhân gia viên tịch ngày Hai Mươi tháng Tám Âm lịch.



 

(Sớ) Xà-duy tân diệt hình tận.

() 闍維薪滅形盡。

(Sớ: Khi trà tỳ, [tới lúc] củi cháy hết, thân hình đều cháy tan).

 

Xà-duy (Jhāpeti) là hỏa táng. Sau khi hỏa táng, “tân diệt”: Tân () là củi để thiêu; củi thiêu cháy sạch rồi, “hình tận”: Cả cái thân đều cháy tan, cháy hết sạch.



 

(Sớ) Thiệt căn nghiễm nhiên.

() 舌根儼然。

(Sớ: Lưỡi vẫn còn nguyên).

Quả nhiên chẳng sai! Đúng như Ngài đã tự nói, lưỡi Ngài chẳng nát! Toàn thân cháy tan thành tro, lưỡi chẳng tan, dùng chuyện này để chứng tỏ kinh điển do Ngài đã dịch phù hợp ý Phật.

 

(Sớ) Kim thử kinh giả, dịch ư Thập sư, nhi thiệt căn bất hoại, dữ chư Phật xuất quảng trường thiệt tán thán thử kinh, hợp nhi quán chi, Phật ngữ bất hư, ư thị ích tín.

() 今此經者,譯於什師,而舌根不壞,與諸佛出廣長舌讚歎此經,合而觀之,佛語不虛,於是益信

(Sớ: Nay kinh này do ngài La Thập dịch, mà lưỡi Ngài chẳng nát, cùng với chư Phật hiện tướng lưỡi rộng dài tán thán kinh này. Hợp cả hai điều này lại để xem xét, lời Phật chẳng dối; do vậy, càng thêm tin tưởng).

 

La Thập đại sư phát thệ nguyện giữ cái lưỡi lại để chứng minh. Trong kinh này, mười phương chư Phật hiện tướng lưỡi rộng dài ca ngợi kinh này, khuyên chúng ta tu học. Chúng ta hợp những điều này lại để xem xét, lòng tin mới có thể tăng trưởng.



 

(Huyền Nghĩa) Nhị, danh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ Kinh.

(玄義) 二、名稱讚淨土佛攝受經。

(Huyền Nghĩa: Bản thứ hai tên là Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ Kinh).

 

Kinh này có hai bản dịch, bản trước do La Thập đại sư phiên dịch, nay chúng ta đang dùng bản này. Về sau, Huyền Trang đại sư từ Ấn Độ trở về, mang theo nguyên bản kinh Di Đà bằng tiếng Phạn, cũng dịch sang tiếng Hán, nhưng tựa đề kinh khác nhau, Huyền Trang đại sư ghi tên kinh là Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ Kinh.



 

(Huyền Nghĩa) Đường Tam Tạng pháp sư Huyền Trang dịch, nhị kinh liên tỷ, tiểu dị đại đồng, thời sở tông thượng, giai hoằng Tần bổn.

(玄義) 唐三藏法師玄奘譯,二經聯比,小異大同,時所宗尚,皆弘秦本。

(Huyền Nghĩa: Do Tam Tạng pháp sư Huyền Trang dịch vào đời Đường. So sánh giữa hai kinh, sai biệt đôi chút, những điểm chánh yếu đều giống nhau, nhưng các thời đều ưa chuộng, hoằng dương bản dịch đời Tần).

 

“Liên” () là liên tục, ngài La Thập dịch trước, ngài Huyền Trang dịch sau. “Tỷ” () là so sánh. Lấy hai bản này để so sánh, ý nghĩa giống như nhau, nhưng văn tự khác nhau, cho nên là đại đồng tiểu dị; nhưng từ xưa tới nay bản được lưu thông luôn là bản dịch của La Thập đại sư. Tuy Huyền Trang đại sư có phiên dịch, nhưng từ xưa tới nay không có ai niệm bản dịch của Ngài. Huyền Trang đại sư phát tâm tới Ấn Độ vì hoài nghi kinh điển được phiên dịch qua các đời chẳng đáng tin cậy lắm, cho nên tự mình đến Ấn Độ để ấn chứng đôi chút, coi thử bản dịch bằng tiếng Hán và nguyên văn kinh điển có bị sai khác rất lớn hay chăng, có bị dịch sai hay không. Do động cơ (motivation) này, Ngài qua Ấn Độ, ở lại Ấn Độ học tập mười bảy năm.

Thuở ấy, du hành bằng ngựa, tức là cỡi ngựa, giao thông chẳng thuận tiện như hiện tại, kinh điển từ Ấn Độ chuyển về Trung Quốc cũng vô cùng gian khổ. Kinh chép trên lá Bối. Lá cây Bối Đa La (Pattra) dầy như lá chuối, nhưng chất liệu bền bỉ hơn lá chuối rất nhiều. Quý vị hãy nghĩ xem: Lá cây cồng kềnh, một mảnh lá cây như vậy được cắt thành từng miếng, mỗi miếng chép bốn dòng, một thớt ngựa đại khái chỉ chở được một bộ kinh mà thôi! Kinh sách, tượng Phật từ Ấn Độ mang về Trung Quốc, gặp bao nhiêu khổ nạn chẳng thể nào tưởng tượng, đúng là nguy hiểm tánh mạng, chín phần chết, một phần sống.

Sau khi trở về, Huyền Trang đại sư đã công nhận bản dịch kinh Di Đà của Cưu Ma La Thập đại sư không có vấn đề gì. Nếu có vấn đề, Ngài đã sớm tuyên bố nên dùng bản dịch của Ngài. Bản dịch của Ngài chỉ để cho chúng ta tham khảo, vẫn chủ trương mọi người hãy niệm bản dịch của La Thập đại sư y như cũ; do vậy, chúng ta đối với bộ kinh này, càng tăng trưởng lòng tin vô cùng. Truyền nhân của Huyền Trang đại sư là Khuy Cơ, Khuy Cơ đại sư là khai sơn tổ sư của Pháp Tướng Duy Thức Tông. Bộ Di Đà Kinh Thông Tán Sớ của Khuy Cơ đại sư đã dùng bản dịch của Cưu Ma La Thập. Khuy Cơ đại sư chú giải kinh Di Đà chẳng chọn bản dịch của thầy, mà chọn bản dịch của Cưu Ma La Thập đại sư, dụng ý ấy đặc biệt sâu xa. Hai vị đại sư này làm chứng cho chúng ta biết: Bản dịch của Cưu Ma La Thập đại sư chắc chắn là khá lắm, hai Ngài đều tán thán, đều giúp lưu thông, còn tranh cãi gì nữa hay chăng? Hơn nữa, Khuy Cơ đại sư chú giải kinh Di Đà, tán thán pháp môn này, tán thán đến mức không còn gì hơn được nữa: Chí viên chí đốn, từ một ngày đến bảy ngày thành tựu. Nếu câu nói này thốt ra từ miệng một vị Tổ Sư bên Tịnh Độ Tông sẽ là chuyện rất bình thường, nhưng do khai sơn tổ sư của Duy Thức Pháp Tướng Tông thốt ra, chuyện này chẳng đơn giản! Do vậy, cống hiến của hai vị đại sư đối với pháp môn Tịnh Độ quả thật quá to lớn. Chúng ta nên hiểu điều này!

 

(Sớ) Huyền Trang pháp sư giả, Đường Lạc Châu Câu Thị nhân, tánh Trần thị.

() 玄奘法師者,唐洛州緱氏人,姓陳氏。

(Sớ: Pháp sư Huyền Trang pháp sư là người huyện Câu Thị, xứ Lạc Châu, sống vào đời Đường, họ Trần).

 

“Đường” là đời Đường, Lạc Châu nay là Lạc Dương, Ngài là người huyện Câu Thị. “Trần thị tánh” (họ Trần) đây là họ ngoài đời25[25] của Ngài.

 

(Sớ) Thiếu ly hoạn nạn, tùy huynh Trưởng Kiện pháp sư xuất gia ư Tịnh Trụ Tự.

() 少罹患難,隨兄長腱法師出家於淨住寺。

(Sớ: Thuở nhỏ gặp hoạn nạn, theo anh là pháp sư Trưởng Kiện xuất gia tại chùa Tịnh Trụ).

 

Lúc còn trẻ, gia cảnh khó khăn, anh Ngài xuất gia, Ngài cũng xuất gia làm tiểu sa-di.



 

(Sớ) Niên thập nhất, tụng Duy Ma, Pháp Hoa, trác nhiên tự lập, bất ngẫu thời lưu.

() 年十一,誦維摩法華,卓然自立,不偶時流。

(Sớ: Năm mười một tuổi, do tụng Duy Ma và Pháp Hoa, nổi bật hơn người, chẳng chơi đùa cùng đồng bạn).

 

Mười một tuổi, nếu nói theo chúng ta hiện thời thì gần như là một đứa bé con chẳng hiểu biết nhiều nhặn gì! Khi ấy, gia cảnh kham khổ, có lẽ là một đứa trẻ cha mẹ đã khuất, không nơi nương tựa, thường được đưa đến chùa miếu làm tiểu sa-di. Theo quy chế nhà Phật, bảy tuổi mới có thể là sa-di. Nhìn vào những tiểu sa-di ở chung với nhau, đương nhiên trẻ nhỏ không thể nào chẳng chơi đùa. Ngài mười một tuổi, tuổi chẳng khác mọi người cho mấy, nhưng Ngài quở trách các bạn trẻ khác: “Đã xuất gia thì phải nên nghiêm túc tu học Phật pháp, chẳng thể vẫn giống như lũ trẻ giỡn hớt, đùa nghịch, bỏ phí thời gian quý báu của chính mình”. Ngài có thể nói những câu này, những người lớn nghe được, biết đứa bé này chẳng tầm thường, nên cũng khá coi trọng Ngài. “Trác nhiên tự lập” là nói đến chuyện này. “Bất ngẫu thời lưu” là chẳng chơi đùa cùng với mọi người.



 

(Sớ) Niên nhị thập nhất, giảng Tâm Luận, bất khuy văn tướng, dũng chú bất cùng, thời hiệu “thần nhân”.

() 年二十一,講心論,不窺文相,涌注不窮,時號神人。

(Sớ: Năm hai mươi mốt tuổi, giảng Tâm Luận, chẳng nhìn vào văn tự, mà tuyên giảng ào ạt chẳng ngớt, khi ấy, gọi Ngài là “thần nhân”).

Ngài từ năm mười một tuổi đã chuyên tâm nhất chí, chẳng ham vui đùa, chuyên tâm tu học Phật pháp, tới năm hai mươi mốt tuổi đã có thành tựu kha khá. Ngài giảng kinh có thể không cần nương theo chú giải, lên bục giảng, ý nghĩa tự nhiên nẩy sanh “dũng chú bất cùng” (tuôn ra ào ạt chẳng ngớt), đối với nghĩa lý áo diệu trong kinh, từ cái tâm thanh tịnh giống như nước suối tuôn trào ra ngoài. Đây là trí huệ, mà cũng là cảm ứng; do vậy, Ngài được gọi là “thần nhân”, thật sự là bậc hữu đức hữu học. La Thập đại sư thuở ấy là như vậy, mà ngài Huyền Trang cũng chẳng phải là ngoại lệ.

 

(Sớ) Trinh Quán tam niên, vãng Tây Vực thủ kinh, bị kinh hiểm nạn, lịch bách ngũ thập quốc, toại chí Xá Vệ.

() 貞觀三年,往西域取經,備經險難,歷百五十國,遂至舍衛

(Sớ: Năm Trinh Quán thứ ba (629), sang Tây Vực thỉnh kinh, trải đủ mọi nỗi hiểm nạn, đi khắp một trăm năm mươi nước, dần dần đến Xá Vệ).

 

Trinh Quán (626-649) là niên hiệu của Đường Thái Tông. Vào thời ấy, ra khỏi nước phải được hoàng đế phê chuẩn. Hoàng đế chẳng phê chuẩn, Ngài lén lút ra đi. Trên đường đi, đúng là nếm trọn hết nỗi khổ, đến Đôn Hoàng26[26], đồng bạn đều ngã lòng, quay về, chịu khổ không thấu mà! Ngài một mình, chẳng sợ gian nan, nguy hiểm, lần lượt đi qua hơn một trăm năm mươi quốc gia, những nước này đều là tiểu quốc. Đi như vậy đến thành Xá Vệ của Ấn Độ. Chùa Na Lạn Đà (Nālandā)27[27] là nơi Huyền Trang đại sư ở lại để học tập, cũng thuộc thành Xá Vệ.



(Sớ) Thủ kinh lục bách dư bộ, Trinh Quán thập cửu niên hoàn kinh.

() 取經六百餘部,貞觀十九年還京。

(Sớ: Thỉnh được hơn sáu trăm bộ kinh, năm Trinh Quán mười chín, trở lại kinh thành).

 

Ngài ra đi năm Trinh Quán thứ ba (629), năm Trinh Quán mười chín (645) quay về. Từ đầu đến cuối là mười bảy năm. Khi trở về, Đường Thái Tông nghênh tiếp tại trường đình, gặp mặt Ngài bèn hỏi: “Sao Ngài lại lén lút ra đi?” Đây là Ngài hết sức thành công tại ngoại quốc, vô cùng quang vinh trở về. Lúc đó, người Ấn Độ tôn xưng Ngài là Đại Thừa Thiên. Tại Ấn Độ, trong Đại Thừa Phật pháp, không có một ai có thể trội hơn Huyền Trang đại sư. Khi ấy, Ấn Độ có mười tám quốc vương hợp sức tổ chức cử hành một đại hội biện luận, giống như là đấu võ đài vậy, thỉnh Huyền Trang đại sư chủ trì, bất cứ ai trong xứ Ngũ Ấn Độ đều có thể tùy tiện biện luận với Ngài, nhưng không có một tranh biện thắng nổi Ngài. Lúc trở về khác hẳn, mỗi lần đến một nước nào, quốc vương, đại thần đích thân nghênh tiếp và đưa tiễn, cho nên Ngài mang nhiều kinh sách như vậy quay về chẳng khó khăn, dọc đường có người hộ tống, có người cung cấp ngựa và lương khô, đúng là “áo gấm vinh quy”. Sau khi Ngài trở lại Trung Quốc, Đường Thái Tông đích thân ra ngoài thành hoan nghênh Ngài.



 

(Sớ) Ư Ngọc Hoa Đài phiên dịch kinh luận, tổng nhất thiên tam bách tam thập quyển.

() 於玉華臺翻譯經論,總一千三百三十卷。

(Sớ: Phiên dịch kinh luận ở Ngọc Hoa Đài, tổng cộng một ngàn ba trăm ba mươi quyển).

Trong lịch sử dịch kinh Trung Quốc, Huyền Trang đại sư phiên dịch kinh điển nhiều nhất, phong phú nhất. Ngài mang về hơn sáu trăm bộ kinh sách, mỗi một bộ nhỏ thì chỉ có một quyển, lớn thì có tới cả ngàn quyển. Nguyên văn Trí Độ Luận là một ngàn quyển, Huyền Trang đại sư phiên dịch, đã rút gọn thành một trăm quyển. Chỉ có Đại Bát Nhã Kinh sáu trăm quyển là phiên dịch giữ đúng nguyên văn. Kinh Kim Cang là một quyển trong bộ kinh Đại Bát Nhã này, quyển này cũng là tinh hoa của toàn bộ kinh Bát Nhã. Huyền Trang đại sư phiên dịch kinh luận tổng cộng một ngàn ba trăm ba mươi quyển, dịch nhiều nhất!

Những kinh do Huyền Trang đại sư dịch là trực dịch. Theo ngữ pháp trong tiếng Ấn Độ có rất nhiều câu viết theo lối đảo ngược, người Trung Quốc đọc bản dịch của Ngài [cảm thấy] không quen thuộc lắm! La Thập đại sư là ý dịch, tức là Ngài vốn đã hiểu rõ ý nghĩa của bản gốc kinh điển, hoàn toàn dùng ngữ pháp và cách nói của người Hoa để phiên dịch, cho nên chúng ta thấy kinh do Ngài dịch giống như văn chương của người Hoa, nên họ đọc rất hoan hỷ, chẳng gặp khó khăn. Bản dịch của La Thập đại sư đặc biệt được người Trung Quốc hoan nghênh là do đạo lý này!

 

(Sớ) Ký ngọa tật.



() 既臥疾。

(Sớ: Đã nằm bệnh).

Huyền Trang đại sư viên tịch năm sáu mươi mấy tuổi. Tại Trung Quốc, gần như là những pháp sư đại đức nghiên cứu Duy Thức Pháp Tướng thọ mạng cũng chẳng dài, những vị có thể thọ hơn bảy mươi tuổi rất ít. Chúng tôi nghĩ có lẽ là do các Ngài suy nghĩ quá độ! Duy Thức Pháp Tướng rất tốn công suy nghĩ, quả thật là có chút hợp lý. Hiện thời, cũng có không ít người rất có hứng thú đối với tông này, nhưng muốn thật sự thành tựu, chắc chắn là vắt kiệt cân não, vì phải làm công tác phân tích, phân tích vô cùng vi tế. Không giống như Tánh Tông hay Niệm Phật, tâm gì cũng chẳng cần dấy lên, cầu nhất tâm bất loạn, tâm thanh tịnh là được rồi! Khi Huyền Trang đại sư viên tịch, Ngài ngã bệnh. Có học trò hỏi Ngài: “Công phu tu hành của lão nhân gia tốt đẹp dường ấy, cả đời phiên dịch kinh điển nhiều ngần ấy, có công đức to dường ấy, cớ sao lúc ra đi vẫn ngã bệnh?” Ngài bảo: “Do tội chướng từ vô thỉ kiếp tới nay, tội nặng, báo nhẹ, do đau bệnh lần này, tất cả nghiệp chướng sẽ đều tiêu trừ”.

 

(Sớ) Kiến đại bạch liên hoa cập Phật tướng.

() 見大白蓮華及佛相。

(Sớ: Thấy hoa sen trắng to và hình tướng Phật).

Đây là một tướng lành hết sức tốt đẹp.

 

(Sớ) Hữu hiếp lũy túc nhi thệ, lưỡng nguyệt, sắc mạo như sanh.

() 右脅累足而逝,兩月,色貌如生。

(Sớ: Xếp chân nằm trên hông phải qua đời, đã mất hai tháng mà sắc tướng, diện mạo vẫn như còn sống).

 

Vì Ngài là người được Đường Thái Tông tôn kính nhất, nên sau khi Ngài đã tịch, vua đã lưu xác Ngài hai tháng rồi mới nhập liệm, diện mạo như còn sống, có thể thấy tướng tốt lành này.



 

(Sớ) Tiên thị Tây hành chi nhật, phủ Linh Nghiêm Tự tùng nhi tác thệ ngôn: “Ngô Tây khứ, nhữ Tây trưởng, ngô Đông quy, nhữ Đông hướng”.

() 先是西行之日,撫靈嚴寺松而作誓言:吾西去,汝西長,吾東歸,汝東向。

(Sớ: Trước ngày Ngài sang Tây Trúc, đã vỗ vào cây tùng ở chùa Linh Nghiêm thề rằng: “Ta sang phương Tây, ngươi hãy mọc dài về phương Tây. Ta trở về phương Đông, ngươi hãy hướng về phương Đông”).

 

Khi Ngài sang Ấn Độ, xuất phát từ Linh Nghiêm Tự. Ở cổng chùa Linh Nghiêm có một gốc tùng, Ngài bèn vỗ vào thân cây tùng, bảo nó: “Ta sang phương Tây thỉnh kinh, ngươi hãy mọc dài về phương Tây. Năm nào ta trở về, ngươi hãy đổi lại, mọc dài sang phương Đông”. Đúng là như vậy, cây này rất linh.



 

(Sớ) Sư khứ, tùng Tây trưởng chí ư sổ trượng.

() 師去,松西長至於數丈。

(Sớ: Sư đi rồi, cây tùng mọc dài về phía Tây đến mấy trượng).

 

Huyền Trang đại sư sang Ấn Độ, cây ấy mọc dài về phía Tây, mọc đặc biệt tươi tốt, mọc đến vài trượng.



 

(Sớ) Nhất nhật hốt Đông hồi.


Каталог: 2011
2011 -> HƯỚng dẫn viết tiểu luậN, kiểm tra tính đIỂm quá trình môn luật môi trưỜNG
2011 -> Dat viet recovery cứu dữ liệu-hdd services-laptop Nơi duy nhất cứu dữ liệu trên các ổ cứng Server tại Việt Nam ĐC: 1a nguyễn Lâm F3, Q. Bình Thạnh, Tphcm
2011 -> Ubnd tỉnh thừa thiên huế SỞ giáo dục và ĐÀo tạO
2011 -> SỞ TƯ pháp số: 2692 /stp-bttp v/v một số nội dung liên quan đến việc chuyển giao CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
2011 -> QUỐc hội nghị quyết số: 24/2008/QH12 CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
2011 -> NĐ-cp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập – Tự do – Hạnh phúc
2011 -> BỘ NỘi vụ CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
2011 -> Nghị quyết số 49-nq/tw ngàY 02 tháng 6 NĂM 2005 CỦa bộ chính trị VỀ chiến lưỢc cải cách tư pháP ĐẾn năM 2020
2011 -> Ủy ban nhân dân tỉnh bà RỊa vũng tàU
2011 -> Ủy ban nhân dân cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam thành phố HỒ chí minh độc lập Tự do Hạnh phúc

tải về 461.13 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương