A dục vưƠng (asoka) cuộC ĐỜi và SỰ nghiệP



tải về 1.22 Mb.
trang7/19
Chuyển đổi dữ liệu26.07.2016
Kích1.22 Mb.
#6622
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   19
Tài liệu kể tiếp rằng sau khi nghe Mahendra thuyết giảng , hoàng hậu Anula ( có nơi bảo là công chúa) và 500 thị tỳ của bà tỏ ý muốn xuất gia nhưng không thể thực hiện ý nguyện bởi giáo hội ở đây đang thiếu các thủ tục cần thiết cho nữ giới xuất gia. Vua Devànampiy sau khi xem xét sự việc đã phái sứ giả sang Ấn Độ, đệ trình Asoka ý nguyện của mình muốn mời Tỷ-kheo ni Samgha-mitra, con gái Asoka, sang Tích Lan tiến hành các thủ tục xuất gia cho phụ nữ đồng thời xin một nhánh cây Bồ đề đem về trồng ở Tích Lan cho quần chúng kính ngưỡng. Tài liệu thuật rằng mặc dù rất buồn lòng phải xa cách người con gái yêu quý của mình, Asoka đã đáp ứng yêu cầu của nhà vua Devànampiya, gởi Samgha-mitra sang đảo Sư tử và chiết tặng nhánh cây Bồ đề sang Tích Lan được mô tả khá sinh động ở bức tranh phù điêu trên cổng phía Đông Đại bảo tháp Sàñchì. Tài liệu Tích Lan còn nói rằng trong khi Asoka đang tham dự lễ tiễn chân sứ giả mang nhánh cây Bồ đề về Tích Lan thì một phái bộ ngoại giao Tích Lan khác do tăng sĩ Sumana, người cùng đi trong phái đoàn truyển giáo của Mahendra và là cháu ngoại Asoka, dẫn đầu, đến Ấn Độ truyền đạt ý nguyện của nhà vua Tích Lan xin thỉnh cầu xá lợi Phật cho xứ sở mình. Asoka đáp ứng nguyện vọng của nhà vua Tích Lan bằng cách gởi tặng nhân dân Tích Lan một dĩa đầy xá lợi mà sau đó được tôn thờ tại bảo tháp Thuparama ở Colombo. Các chuyên gia về Phật giáo Tích Lan sơ khởi đã để lại ấn tượng sâu sắc và tiếp tục đánh thực lòng nhiệt thành mộ đạo của hàng triệu tín đồ Phật giáo xứ sở này. Thứ nhất là nhánh cây Bồ đề thiêng liêng do Asoka gởi tặng và thứ hai là chiếc răng Phật được mang từ Ấn Độ về Tích Lan khoảng 500 năm sau đó. [138]
Nhưng quan hệ của nhà nước Asoka với các quốc gia khác không chỉ về phương diện tín ngưỡng và văn hóa. Song song với các phái đoàn truyền giáo được gởi đi khắp nơi trong và ngoài nước nhằm mục đích phổ biến Chánh pháp ( Dharma ) và giới thiệu đường lối đức trị ( Dharma-vijaya ) , Asoka còn đẩy mạnh quan hệ hợp tác và trao đổi với các nước về các lãnh vực khác như y học và trồng trọt. Bia ký II, văn bản Girnar, đề cập việc Asoka cho mở rộng mạng lưới y tế chăm sóc sức khỏe cho dân và điều trị cho thú vật không chỉ ở trong nưóc mà còn vươn sang các nước láng giềng. Bia ký này nói đến một số quốc gia được hưởng chế độ chăm sóc y tế của nhà nước Asoka gồm Chola, Pàndya, Sàtiyaputra, Keralaputra và Tàmraparnì ở phương nam, Antiocho ở tây bắc và các quốc gia láng giềng với Antiocho. Tài liệu này cũng nói rõ việc Asoka cho xuất và nhập khẩu các loại cây làm thuốc và cây ăn quả để trồng trong nước và ở nước ngoài. Như vậy quan hệ giữa nhà nước Maurya với các quốc gia khác trở nên thân thiện và gắn bó không chỉ trên phương diện trao đổi văn hóa và tín ngưỡng mà còn thể hiện ở sự chăm sóc lẫn nhau cả về phương diện đời sống vật chất lẫn sức khỏe tinh thần.
Nhận định về đường lối lãnh đạo của Asoka, K.Hazra nói rằng Asoka đã giữ vững đế quốc rộng lớn của mình và thiết lập quan hệ thân thiện với các thế lực nước ngoài mà không dùng đến vũ lực chiến tranh hay chính sách xâm lược.[139] Theo W.Rahula, Asoka là vị hoàng đế lỗi lạc, đã có can đảm, đức tin và kiến giải đủ để áp dụng những lời dạy của đức Phật về hòa bình, bất bạo động và yêu thương trong việc cai trị một đế quốc rộng lớn về cả nội bộ lẫn ngoại giao. Ông công khai quay lưng lại với chiến tranh, bạo động và đón nhận thông điệp của bất bạo và hòa bình. Không có bằng chứng lịch sử nào nói rằng có vua láng giềng nào đã lợi dụng sự sùng đạo của Asoka để tấn công ông về quân sự, hay có một cuộc nổi loạn nào trong đế quốc ông lúc sinh thời .Trái lại hòa bình ngự trị khắp trên lãnh thổ, và ngay cả những xứ bên ngoài vương quốc ông cũng dường như đã chấp nhận sự lãnh đạo nhân từ của ông.[140] Quan điểm của hai học giả này là hoàn toàn chính xác bởi theo thông tin ghi ở bia ký XIII thì Asoka không chỉ thu phục nhân tâm quần chúng trong nước mà còn đạt được thành công lớn trong đường lối ngoại giao dựa trên cơ sở đức trị ( Dharma-vijay ). Nguồn tin này cho hay các quốc gia và dân tộc đương thời chấp nhận đường lối đức trị của Asoka gồm Chola, Pàndya, Tàmraparnì ở phương Nam, các lãnh địa và dân tộc Kamboja, Nabhaka, Nabhiti, Pitinika, Andhra và Palida ở phía Bắc và Đông Bắc, các quốc gia ở Tây Bắc như vương quốc vua Anitocho, vương quốc vua Ptolemy, xứ sở vua Antigocho , vương quốc vua Maga và vương quốc vua Alexander. Theo khảo cứu của P.H.L.Eggermont [141] thì Antiochus II, trị vì Babylon và Persia khoảng 261-247 trước Công nguyên; Ptlemy tức Ptolemaseus II, trị vì Ai Cập từ 285-247 trước Công nguyên; Antigono hay Antigonus Gonatas trị vì Macedonia từ 277-240 trước Công nguyên; Maga hay Maka làm vua Xy –ri 50 năm, qua đời trong khoảng thời gian 253-250 trước Công nguyên; Alexander là hoàng đế xứ Epirus, lên ngôi vào năm 272 trước Công nguyên và mất vào năm 255 trước Tây lịch.
[85] J.Jolly & R.Schmidt, Kautilya’s Arthaśàtra,I,tr.5.
[86] Bia ký Kainga II,văn bản Jaugda;bia ký VI, văn bản Girnar.
[87] Trụ đá I.
[88] Bia ký Kalinga.
[89] Trụ đá IV.
[90] Trụ đá IV.
[91] V.A.Smith,Asoka,tr.232.
[92] EB,II, fascile,2tr.190.
[93] Bia ký V.
[94] Trụ đá IV.
[95] Bia ký IV,V,IX,XI,XIII.
[96] Trụ đá II.
[97] Trụ đá VII.
[98] Tiểu bia ký II; Bia ký III,IV,VII,VIII, IX,XI,XIII;trụ đá V, VII.
[99] Tiểu bia ký II; bia ký III ,XIII;trụ đá II, VII.
[100] Bia ký IX.
[101] Bia ký XI.
[102] Bia ký XIII.
[103] Trụ đá IV.
[104] Bia ký Kalinga I.
[105] Bia ký Kalinga I.
[106] Trụ đá I.
[107] Bia ký V.
[108] Bia ký VI.
[109] Bia ký VI.
[110] Trụ đá IV.
[111] Trú đá VII.
[112] D.R.Bhandarkar,Asoka,tr.52.
[113] R. Mookerji, Asoka,tr,58.
[114] R.Mookerji,Asoka,tr.132,phần chú thích cuối trang.
[115] D.R.Brhandarkar, Asoka,tr.63.
[116] B.M.Barua,Asoka and hia Inscriptions,tr.183.
[117] Như trên.
[118] Trụ đá VI;biaký XII.
[119] Bia ký Bhabrù hay Bairat.
[120] B.M.Barua, Asoka and his Inscriptions,tr.358.
[121] V.A.Smith, Asoka,tr.208.
[122] JEFA,tr.30-31.
[123] JNI,tr.139.
[124] Nguyên bản dùng chữ Àjìvikas, đúng ra là chữ Niganthas bởi toàn bộ câu chuyện đề cập về các tu sĩ Kỳ Na giáo bị sát hại . Có lẽ tác giả của câu chuyện đã có sự nhầm lẫn giữa các vị Àjìvika, các tu sĩ tuân thủ nếp sống khổ hạnh do giáo chủ Makhali Gosàla đề xuất, và các vị Nigantha, tức các tu sĩ Kỳ Na giáo chấp nhận nếp sống khắc kỷ khổ hạnh do Nigantha Nàtaputta hay Mahàvìra chủ trương.
[125] RPBAI,tr.67.
[126] Như trên.
[127] Kinh Sa môn quả, Trường bộ.
[128] R. Mookerji, Asoka,tr.111,phần chú thích cuối trang.
[129] R.Mookerji, Asoka,tr.111,phần chú thích cuối trang.
[130] Bia ký XII, trụ đá VI.
[131] Bia ký III, IX,XI,XIII.
[132] Trụ đá VII.
[133] Bia ký XIII.
[134] Bia ký IV.
[135] Bia ký XIII.
[136] V.A.Smith, Asoka,tr.212.
[137] V.A.Smith, Asoka,tr.213-15; R.Mookerji, Asoka,tr.35-36.
[138] P.V.Bapat, 2500 of Buddhism,tr.75.
[139] RPBAI,tr.64.
[140] Thích nữ Trí Hải, Đức Phật đã dạy những gì ,tr.204-06.
[141] DHB, phần I, tr.142.

---o0o---


Chương IV
Asoka - VỊ HOÀNG ĐẾ PHẬT TỬ
Trong các chương trước chúng ta đã mô tả khá đầy đủ về Asoka, vương quốc Maurya của ông cũng như các chính sách mà vị vua này đã đề ra nhằm điều hành quốc gia to lớn của mình và thiết lập quan hệ hòa hiếu với các nước láng giềng. Tiếp theo chúng ta sẽ xem xét vị hoàng đế này trong vai trò một Phật tử, những cống hiến của ông đối với Phật giáo; Asoka trong vai trò một Pháp vương (Dharmaràja) , theo đuổi lý tưởng Chánh pháp (Dharma) và cai trị bằng Chánh pháp; Giáo pháp của Asoka ; và đặc biệt ảnh hưởng Phật giáo trong đường lối trị quốc của ông.
Có một thời các học giả đã tỏ ra lúng túng không biết Asoka là ai và tín ngưỡng hay tôn giáo mà ông theo đuổi là gì. [142] Ngày nay với số lượng thông tin thu nhập được từ các nguồn sử liệu văn học và đặc biệt là tù khoa khảo cổ học, việc xác định thân thế và sự nghiệp của vị hoàng đế này không còn là vấn đề khó khăn. Các truyền thuyết và sử liệu khác nhau đều thống nhất Asoka là một Phật tử, mặc dù có vài sai khác nhỏ về vị thầy đầu tiên đã ảnh hưởng đến việc cải giáo của ông. Edward Thomas cho rằng Asoka từng là tín đồ Kỳ Na giáo trước khi trở thành một Phật tử, [143] nhưng theo sử liệu Tích Lan thì trước khi quy y Tam bảo, Asoka, giống như cha mình, theo tín ngưỡng Bà-la-môn. Trong chỉ dụ ghi ở tiểu bia ký I, Asoka thông báo với chúng ta các giai đoạn tiếp cận Phật giáo của ông và tự nhận là đệ tử Phật (upàsika).trong bia ký Bhabrù, Asoka khẳng định niềm tin đối với Phật, Pháp, Tăng, tuyên bố giáo pháp của đức Phật là khéo thuyết, đồng thời nêu rõ bảy bài kinh trong số các kinh điển Phật giáo mà ông cho là quan trọng và khuyên tất cả Tăng, Ni, nam nữ Phật tử cần phải thường xuyên đọc tụng và thực hành. Ở bia ký VIII và trụ đá Rummindeì, Asoka là nhà chiêm bái Phật tích. Trụ đá Nigliva đánh dấu tấm lòng ngưỡng mộ Phật pháp của Asoka qua việc trùng tu bảo tháp đức Phật Câu Na Hàm Mâu Ni (Kanakamana) .Asoka hiện rõ trong các trụ đá Sàrnàth, Kauśàmbì và Sàñchì là người bảo vệ Phật pháp bởi lời tuyên bố tẩn xuất những ai gây chia rẽ Tăng già. Truyền thuyết Ấn Độ và ký sự của các nhà chiêm bái Trung Hoa xem Asoka là người xây dựng nhiều chùa tháp Phật giáo và là nhà bảo trợ chính của phái Nhất thiết hữu bộ (Sarvàtisvàda). Truyền thống Tích Lan gắn Asoka với hội nghị kiết tập lần thứ ba và công tác truyền bá Phật pháp đánh dấu sự phát triển của đạo Phật ở bên trong và bên ngoài lục địa Ấn Độ.
I.Các truyền thuyết về sự cải giáo của Asoka :
Các tài liệu và truyền thuyết liên quan không thống nhất với nhau về bưóc đầu Asoka tiếp cận Phật giáo. Theo tài liệu Mahàvamsa thì Nigrodha là vị tu sĩ Phật giáo đầu tiên đã cảm hóa Asoka từ tín ngưỡng Bà-la-môn sang đức tin Phật giáo. Truyền thuyết này nói rằng Nigrodha là con trai Sumana, anh trai Asoka, người bị Asoka sát hại trong cuộc chiến tranh giành ngôi vị vương triều Maurya. Khi Sumana bị sát hại, mẹ của Nigrodha khi ấy đang mang thai ông bị buộc phải rời hoàng cung sinh sống trong một ngôi làng dành cho cư dân giai cấp hạ lưu. Vào ngày rời hoàng cung, bà hạ sinh Nigrodha, đứa bé có nhiều dấu hiện đặc biệt lúc chào đời và bảy năm sau xuất gia thành một tu sĩ Phật giáo. Một hôm, sa-di trẻ Nigrodha đi ngang qua hoàng cung và lọt vào tầm mắt của Asoka bởi dáng vẻ thánh thoát và trầm tỉnh lạ thường. Asoka cảm thấy hoan hỷ, cho mời vị sa-di nhỏ tuổi vào hoàng cung và bảo : “ Con thân, hãy chọn chổ ngồi mà con nghĩ là thích hợp.” Nigrodha liếc nhìn ngai vàng đang bỏ trống và Asoka hiểu ra rằng vị sa-di trẻ này có ý muốn trở thành chủ nhân của hoàng cung. Ông dắt tay Nigrodha và đặt cậu bé ngồi lên ngai vàng, sau đó thết đãi vị sa-di các món ăn đặc biệt dành riêng cho ông. Sau buổi tiếp đãi trang trọng, Asoka hỏi vị sa-di trẻ về giáo lý của đức Phật và Nigrodha nói cho ông về Appamàda, nêu rõ lòng nhiệt thành mến đạo đưa đến kết quả bất tử và thái độ xem thường đạo lý dẫn đến khổ đau sinh tử. Cảm kích bởi lời dạy này, Asoka tuyên bố từ bỏ tín ngưỡng Bà-la-môn và chấp nhận giáo lý của đức Phật. Sự kiện xảy ra vào năm thứ tư kể từ khi Asoka chiếm ngai vàng Pàtaliputra, tức vào năm Asoka đăng quang , khoảng 270 hay 269 trước Tây lịch.
Nhưng trong khi truyền thuyết Mahàvamsa xem Nigrodha là người đầu tiên chuyển hóa Asoka thành một Phật tử và Moggaliputta Tissa được xem là vị thầy thứ hai của ông, thì tài liệu do Huyền Trang (Yuan Chwang) cung cấp cho rằng, chính trưởng lão Upagupta là người đã chuyển hóa tín ngưỡng của Asoka. Theo Huyền Trang, Asoka gặp Upaguta sau sự kiện ông phá bỏ chế độ ngục tù dã man do ông lập ra ở Ujjain. Tài liệu Aśokàvadàna đề cập việc Asoka cho thiết lập hệ thống lao tù ở Pàtaliputra (Huyền Trang bảo là ở Ujjain) được mệnh danh là địa ngục trần gian bởi những ai đã rơi vào đây thì không còn cơ may sống sót. Một hôm , có vị tu sĩ tên Balapandita vô tình bưóc vào cửa nhà lao thì liền bị các cai tù tống giam vào ngục. Mấy ngày sau Balapandita bị ném vào vạc dầu đang cháy sôi sục nhưng không hề bị thương tổn. Sự việc đến tai Asoka, ông liền đến hiện trường xem xét và bị cảm kích bởi cảnh tượng phi thường và lời khuyên giáo của tu sĩ Balapandita. Ông bắt đầu theo đuổi tôn giáo chân chính và từ bỏ con đường tội ác. Ngục tù được phá bỏ và các cai tù hung ác bị thiêu sống .[144]
Như vậy, cứ theo lời Huyền Trang thì Asoka gặp Upagupta sau khi chế độ ngục tù được phá bỏ, nghĩa là sau khi Asoka đã được Balapandita cảm hóa. Do đó, nếu bảo Upagupta là người đầu tiên chuyển hóa Asoka thì điều đó hoàn toàn trái với những gì được mô tả trong truyền thuyết Aśokàvadàna. Lại nữa, theo khảo cứu của Waddell thì Upagupta của Huyền Trang không ai khác chính là Moggaliputta Tissa của tài liệu Mahàvamsa ,[145] Bởi vậy nếu cho rằng Upagupta hay Moggaliputta là người đầu tiên chuyển hóa tín ngưỡng của Asoka thì nhận định như vậy không phù hợp với tài liệu Mahàvamsa xem Nigrodha là người thầy đầu tiên của Asoka. Tài liệu do Huyền Trang cung cấp cũng không thống nhất với Mahàvamsa về sự kiện Asoka cho xây dựng bảo tháp tôn thờ xá lợi Phật ở khắp nơi trong vương quốc của ông. Theo Huyền Trang thì do lời khuyên của Upagupta, Asoka cho triệu tập các thợ giỏi trong nước và ra lệnh cho xây dựng các bảo tháp khắp nơi trong xứ sở của mình nhằm tôn thờ xá lợi đức Phật. Các xá lợi này được lấy ra từ tám ngôi bảo tháp gốc và được phân ra tôn thờ tại các bảo tháp mới được xây dựng. Tuy nhiên theo tài liệu Mahàvamsa [146] thì sau khi được Nigrodha cảm hóa, Asoka nhân một buổi thết đãi chư tăng tại hoàng cung đã hỏi xem giáo lý của đức Phật có bao nhiêu pháp môn. Khi biết rằng giáo lý bậc Đạo sư gồm 84.000 pháp môn, Asoka quyết định cứ mỗi pháp môn của bậc Đạo sư sẽ được cúng dường bằng một bảo tháp. Ông hạ chỉ cho quan lại các địa phương lo việc xây dựng 84.000 bảo tháp tại nhiều thành phố khác nhau của Ấn Độ, riêng ông chịu trách nhiệm xây dựng tinh xá Asoka (Aśokàràma) tại kinh đô Pàtaliputra.
Tài liệu bia ký và trụ đá không hé cho chúng ta bất kỳ thông tin nào về các đạo sư đầu tiên đã ảnh hưởng đến việc cải giáo của Asoka. Các bia ký và trụ đá của ông chỉ thông báo việc Asoka tín ngưỡng Tam Bảo, tự nhận là đệ tử Phật cùng một số Phật sự mà ông đã làm với tư cách là một hoàng đế Phật tử. Theo các truyền thuyết Ấn Độ, Tích Lan và tài liệu của Huyền Trang được nêu trên thì ba nhân vật quan trọng đã ảnh hưởng đến cuộc đời và sự nghiệp của Asoka là Nigrodha, balapandita và Moggaliputta Tissa hay Upagupta, gọi theo truyền thuyết Ấn Độ và tài liệu của Huyền Trang. Tài liệu Tích Lan lưu giữ trong tác phẩm Mahàvamsa xem Nigrodha là người đầu tiên cảm hóa đức tin của Asoka, tuy nhiên càng về sau vai trò Nigrodha càng mờ dần và nhường chỗ cho Moggaliputta Tissa trong vị trí bậc thầy tinh thần của Asoka. Tài liệu Bắc truyền chép trong tác phẩm Aśokàvadàna cũng cho thấy Moggaliputta Tissa hay Upagupta là nhân vật quan trọng đối với Asoka. Mahàvamsa nói đến việc hai người con Asoka, Mahendra và Sanghamitra, xuất gia trở thành hai tu sĩ tài đức nhờ ảnh hưởng của Moggaliputta Tissa .[147] Truyền thuyết Ấn Độ ghi nhận rằng sau khi thực hiện xong công trình xây dựng các bảo tháp, Asoka tỏ ý muốn du hành chiêm bái các thánh tích Phật giáo và ông cho mời Upagupta đang sống ẩn cư tại núi Urumunda gần Mathura để thực hiện ý định của mình.Upagupta do đó trở thành người hướng dẫn của nhà vua trong cuộc hành trình này.[148]
Trong sử liệu Tích Lan , tên tuổi Moggaliputta Tissa gắn liền với nhiều Phật sự quan trọng được tiến hành dưới sự bảo trợ của Asoka. Trước hết là công tác thanh tịnh hóa tổ chức Tăng già đang ở trong thời kỳ phân hóa và chia rẽ trầm trọng bởi danh vọng và lợi dưỡng. Mahàvamsa thuật rằng với sự quy ngưỡng Phật giáo của Asoka, chùa chiền được xây dựng khắp nơi và tăng sĩ Phật giáo được cung phụng đầy đủ các tiện nghi vật chất. Những người ngoại đạo bị tổn thất danh lợi liền tìm cách xâm nhập Tăng già. Số lượng ngoại đạo xuất gia tu Phật ngày càng lớn, tập quán và kiến giải củ của họ khiến ảnh hưởng đến thanh danh và uy tín của giáo hội. Các bậc chân tu không chấp nhận sinh hoạt chung với các tăng sĩ gốc ngoại đạo. Tranh chấp nổ ra ngày càng gay gắt trong tổ chức Tăng già đến độ các lễ Bố tát (Uposatha) và Tự tứ (Pavàranà) đã không được tiến hành trong vòng bảy năm.
Tài liệu này nói rằng Asoka hết sức lo lắng cho hiện trạng của giáo hội nên ông đã cho triệu hồi Moggaliputta Tissa về kinh đô Pàtaliputra nhằm tìm giải pháp cho vấn đề. Được Moggaliputta gợi ý, Asoka cho triệu tập tăng chúng tại tinh xá Asoka (Aśokàràma) để tiến hành thanh lọc Tăng già. Biện pháp thanh lọc được thực hiện bằng cách chất vấn các tu sĩ Phật giáo về giáo lý của bậc Đạo sư. Những ai cho rằng Phật giáo chủ trương lý thuyết linh hồn bất tử hay các vấn đề tương tự thì liền bị trục xuất khỏi Tăng già. Chỉ những ai nói rằng bậc Đạo sư chử trương giáo lý phân tích (vibhajjavàda) thì mới được giữ lại trong giáo hội. Truyền thuyết này nói rằng 60.000 tăng sỉ gốc ngoại đạo đã bị buộc phải hoàn tục sau sự kiện thanh lọc Tăng già và giáo hội trở lại các sinh hoạt thanh tịnh. Tài liệu Mahàvamsa ghi nhận thêm rằng sau khi giáo hội trở lại thanh tịnh, Moggaliputta chọn 1000 Tỷ-kheo thông suốt giáo lý nhằm đọc tụng và kiết tập tam tạng, công việc được hoàn tất sau chín tháng, riêng Moggaliputta, cho ra đời tập Kathàvatthu đánh đổ các quan điểm sai quấy của ngoại đạo. Thành công của hội nghị kiết tập kinh tạng lần này được đánh dấu bởi sự kiện các phái đoàn truyền giáo sau đó lần lượt được gởi đi nhiều quốc gia nhằm mục đích phổ biến Chánh pháp. Theo B.Jinananda, các đoàn truyền giáo đã được gởi sang các quốc gia, xa xôi ở châu Á, châu Phi và châu Âu.[149]
Nư vậy, từ các thông tin trên ta có thể nói rằng mặc dù Nigrodha (hay Balapandita) là người đầu tiên cảm hóa đức tin của ông, chính Moggaliputta Tissa đóng vai trò quan trọng trong cuộc đời và sự nghiệp của Asoka. Asoka trở nên nổi tiếng với nhiều hoạt động tôn giáo và văn hóa một phần nhờ công lao của Moggaliputta Tissa.
II. Sự ngưỡng mộ Phật giáo của Asoka :
Các bia ký va truyền thuyết nói rất nhiều về tấm lòng nhiệt thành của Asoka đối với tôn giáo mà ông vừa mới quy ngưỡng. Theo các tài liệu này thì sau khi quy y Tam bảo, Asoka dành nhiều tình cảm ưu ái cho tôn giáo của mình. Trước hết , trong các bia ký, Asoka tự nhận là đệ tử Phật (upàsika), [150] khẳng định niềm tin và bày tỏ lòng tôn kính của mình đối với Tam bảo, Phật, Pháp, Tăng.[151] Ông đối đãi nồng hậu với chư tăng và khuyên thần dân có thái độ tương tự đối với hàng xuất gia. Truyền thuyết Tích Lan thuật rằng sau khi được Nigrodha cảm hóa, mỗi ngày Asoka đón tiếp hàng vạn tu sĩ Phật giáo đến thọ trai và nói pháp tại hoàng cung. Theo tài liệu này thì mỗi ngày Asoka phải chi hết 40.000 tiền vàng cho việc thết đãi 60.000 tu sĩ Phật giáo. Tác phẩm Samantapàsàdika [152] nêu con số Asoka dành ủng hộ cho giáo hội Phật giáo mỗi ngày lên tới 500.000 tiền vàng, được chia như sau: 100.000 dành cho Nigrodha chi tiêu các Phật sự; 100.000 dành cho việc mua sắm hương hoa cúng dường các điện Phật; 100.000 dành cho việc hoằng pháp lợi sanh; 100.000 dùng cung cấp các tiện nghi vật chất cho các tăng sĩ; 100.000 dành cho việc điều trị các tu sĩ đau ốm. Tài liệu Bắc truyền còn đi xa hơn trong việc mô tả tấm lòng ngưỡng mộ Phật giáo của Asoka bằng cách thuật câu chuyện rằng sau khi hoàn tất công trình xây dựng các bảo tháp, Asoka hiến tặng toàn bộ vương quốc của mình cho Tăng già và rồi ông đã ba lần mua lại nó từ giáo hội. Trong ký sự của mình, Pháp Hiển (Fa-hsien) nhắc lại chuyện này và nói thêm rằng Asoka đã cho xây một tòa tháp lớn ở Pàtaliputra và một trụ đá gần bên cạnh trên đó ghi rằng “ Asoka đã hiến tặng toàn cõi Diêm Phù Đề (Jambudvìpa) cho giáo hội Tăng già và rồi đã xin chuộc lại bằng tiền. Ông đã tặng đi và chuộc lại vương quốc của mình trong ba lần.” [153]
Asoka cũng biểu lộ tấm lòng ngưỡng mộ Tam bảo của mình bằng cách tự thân chiêm bái các thánh tịch, lập các bia ký và trụ đá tại các địa danh Phật giáo và cho xây dựng nhiều bảo tháp nhằm tôn thờ xá lợi và xiển dương Phật pháp. Bia ký VIII ghi rằng mười năm sau khi lên ngôi, Asoka hành hương chiêm bái thánh tích Bodhgayà, chỗ đức Phật giác ngộ, thăm viếng và tặng quà cho các Sa-di và Bà-la-môn. Một số tranh điêu khắc tìm thấy ở các cổng đại bảo tháp Sàñchì xác nhận các sự kiện được nêu trong tài liệu bia ký Asoka và các truyền thuyết Tích Lan và Ấn Độ. Bức tranh trên cổng phía đông đại bảo tháp Sàñchì vẽ cây Bồ đề và ngôi bảo tháp Bodh-Gayà ở chính giữa. Bên trái là một đám đông các nhạc công và các tín đồ mang các bình nước. Bên phải vẽ cảnh nhà vua Asoka và hoàng hậi Tisyaraksità đang rời kiệu voi và đảnh lễ câ Bồ đề. Bức tranh điêu khắc trên cổng phía nam đại bảo tháp mô tả cuộc viếng thăm bảo tháp Ràmagrama của Asoka. Bên phải bức tranh vẽ cảnh vua Asoka đang ở trên một cỗ xe ngựa theo sau là một đoàn tùy tùng, bên trái là cảnh các loài rồng (nàga) đang lễ bái ngôi bảo tháp.
Trụ đá Nigliva thông báo mười bốn năm kể từ lúc đăng quang, Asoka cho xây rộng gấp đôi ngôi bảo tháp tôn thờ đức Phật quá khứ Kanakamuni và sáu năm sau, tức hai mươi năm sau khi lên ngôi, nhà vua ngự giá lễ bái ngôi bảo tháp và cho dựng một trụ đá tại đây. Trụ đá Rummindeì cho hay hai mươi năm sau khi đăng quang, hoàng đế Priyadarśì ngự giá chiêm bái chỗ đức Phật đản sanh, cho dựng một trụ đá và giảm tô thuết cho dân làng Lumbinì “ bởi đức Thế Tôn đã ra đời tại đây.” Theo tài liệu Bắc truyền [154] thì sau khi cho xây dựng các bảo tháp tôn thờ xá lợi Phật khắp nơi trong nước, Asoka đã thực hiện chuyến hành hương chiêm bái các thánh tích Phật giáo dưới sự hướng dẫn trực tiếp của Upagupta. Tài liệu này mô tả khá chi tiết về cuộc hành trình của Asoka:
Trước tiên, đoàn đến thăm vườn Lumbinì, chỗ đức Phật đản sanh. Nhà vua tặng 100.000 tiền vàng cho dân chúng vùng này và cho xây dựng một bảo tháp (Stùpa) tại đây. Sau đó đoàn viếng thăm Kapilavastu, quê hương của đức Phật. Tiếp theo phái đoàn đến Bodhayà, chiêm bái gốc cây Bồ đề, chỗ đức Phật giác ngộ, tại đây nhà vua trao tặng số tiền hơn 100.000 tiền vàng vá cho xây dựng một điện Phật (Chaitya) Các địa danh tiếp theo mà đoàn hành hương đến chiêm bái gồm Rishipatana hay Ispatana gần Banares, chỗ đức Phật thuyết bài pháp đầu tiên gọi là “ Chuyển vận bánh xe Chánh pháp” (Dhammacakkappavattana) , và kusinagana, nơi bậc Đạo sư trút hơi thở cuối cùng hay nhập niết bàn. Tại hai điểm này Asoka cũng biểu lộ sự tôn kính của mình bằng cách cúng dường tiền vàng và xây dựng các bảo tháp như ông đã làm đối với hai thánh tích trước. Ở Sravasti, đoàn viếng thăm tịnh xá Jetavana, nơi đức Phật đã từng sống và thuyết giảng Chánh pháp trong một thời gian dài, chiêm bái bảo tháp ba vị đại đệ tử của đức Phật là Xá Lợi Phất (Sàriputra) Mục Kiền Liên (Maudgalàyana) và Đại Ca Diếp (Maha Kasyapa). Chuyện kể rằng khi nhà vua viếng thăm bảo tháp tôn giả Vakkula, ông chỉ cúng một tiền đồng bởi nghe đâu lúc sinh thời vị tôn giả này đã gặp nhiều trắc trở trên con đường tu tập và không làm nhiều việc công đức, trong đó tại bảo tháp tôn giả Ànanda, quà tặng của hoàng gia lên tới 6.000 tiền vàng.
Truyền thống Nepal đề cập sự kiện Asoka hành hương xứ Nepal dưới sự hướn dẫn của Upagupta và nói rằng ông đã cho xây dựng một bảo tháp (stupa) tại trung tâm thành phố Patan, cách Katmandu hai dặm về hướng đông nam, và bốn bảo tháp khác tại bốn địa điểm chính của thành phố mà nay còn dấu vết.[155]
Trong khi tài liệu bia ký chỉ đề cập việc Asoka cho xây rộng gấp đôi ngôi bảo tháp tôn thờ đức Phật quá khứ Câu Na Hàm Mâu Ni (Kanakamana) đã có từ trước và chứng cứ khảo cổ học xác nhận đại bảo tháp Sàñchì và bảo tháp Bharhut thuộc thời đại của ông, [156] các truyền thuyết nói rằng Asoka đã cho xây dựng khắp nơi trong vương quốc của mình 84.000 bảo tháp nhắm tôn thờ xá lợi Phật. Dù con số rất lớn và mang tính rất tượng trưng, các truyền thuyết đề cập các bảo tháp do Asoka cho xây dựng không phải không có cơ sở. Trong ký sự của mình, Pháp Hiển dành nhiều trang viết để mô tả tập tục tôn thờ bảo tháp xá lợi ở Ấn Độ, Tích Lan và nói đến nhiều bảo tháp do Asoka xây cất ở nhiều nơi khác nhau của Ấn Độ. Huyền Trang, nhà chiêm bái và học giả Trung Hoa đến Ấn Dộ vào các thập niên đầu thế kỷ thứ bảy, bảo rằng ông đã trông thấy nhiều bảo tháp cổ của Asoka ở Ấn Độ và ở bên ngoài các biên giới phía bắc Ấn Độ. [157] Theo tài liệu Mahàvamsa thì sau khi được Nigrodha cảm hóa, Asoka đã sai xây dựng 84.000 bảo tháp tại nhiều thành phố và địa phương khác nhau, riêng ông chịu trách nhiệm xây dựng tinh xá Asoka (Aśokàràma) tại kinh đô Pàtaliputra. Tất cả công trình này được hoàn tất trong thời gian ba năm. [158] Theo Huyền Trang thì do lời khuyên của Upagupta, Asoka cho triệu tập các nghệ nhân trong nước và ra lệnh cho xây dựng các bảo tháp ở khắp nơi trong vương quốc của mình nhằm tôn thờ xá lợi Phật .[159] Truyền thuyết Avadàna nói rằng Asoka muốn phân xá lợi của đức Phật thành 84.000 ngôi bảo tháp vừa mới xây xong nên đã cho khai quật ngôi bảo tháp mà vua A Xà Thế (Ajàtasatru) dùng để tôn thờ xá lợi Phật được hom góp lại từ bảy bảo tháp gốc. Bảo tháp thứ tám tại Ràmagrama do các loài rồng (naga) canh giữ không thể khai quật. Các xá lợi lấy ra từ bảy ngôi tháp này được chia đều và tôn thờ tại 84.000 bảo tháp vừa mới xây dựng. [160] Truyền thuyết Avadàna bằng văn kệ nêu con số bảo tháp do Asoka xây dựng còn lớn hơn nhiều so với truyền thuyết Avadàna viết theo thể loại văn xuôi. Theo tài liệu này thì 3.510 triệu bảo tháp đã được xây cất do yêu cầu của dân chúng Taxila và 10.000.000 bảo tháp khác được xây ở các bờ biển bởi các loài dạ xoa (yaksha). [161]


tải về 1.22 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   19




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương