7. Luật về hội hoặc Luật lập hội
8. Luật trưng cầu ý dân
9. Luật biểu tình
Sự cần thiết phải ban hành
Trong xã hội dân chủ, biểu tình được xem như là một trong những quyền cơ bản của công dân được pháp luật ghi nhận. Tham khảo kinh nghiệm một số nước trên thế giới cho thấy, ở Nhật Bản, từ năm 1950 đã có "Luật biểu tình, tuần hành và thị uy lực lượng tập thể"; ở Liên bang Nga, ngày 04/6/2004, Duma quốc gia Nga thông qua Luật liên bang "về hội họp, mít tinh, biểu tình, tuần hành và phong tỏa"; ngày 23/6/2004, Tổng thống Nga V. Putin đã ký lệnh công bố Luật này.
Ở Việt Nam, biểu tình được quy định trong Hiến pháp năm 1992; cụ thể, Điều 69 quy định: "Công dân có quyền biểu tình theo quy định của pháp luật", đồng thời Điều 51 quy định: "Quyền của công dân phải do luật quy định". Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, cho đến nay, Nhà nước ta vẫn chưa xây dựng và ban hành được một đạo luật để quy định về biểu tình.
Để giải quyết tình trạng tập trung đông người trái phép, thực hiện chủ trương của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, ngày 18/3/2005, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 38/2005/NĐ-CP quy định một số biện pháp bảo đảm trật tự công cộng (Nghị định số 38); tiếp đó ngày 05/9/2005, Bộ trưởng Bộ Công an ban hành Thông tư số 09/2005/TT-BCA-V19 hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định nói trên (Thông tư số 09). Nghị định số 38 và Thông tư số 09 được ban hành bước đầu đã tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện quyền được tập trung đông người của công dân và quy định những biện pháp xử lý cần thiết của cơ quan có thẩm quyền khi xảy ra tập trung đông người trái phép, ảnh hưởng đến an ninh, trật tự. Tuy nhiên, các văn bản quy phạm pháp luật nói trên có hiệu lực pháp lý chưa cao, nên chỉ là giải pháp tình thế; mặt khác, không thể quy định được những vấn đề quan trọng có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân cũng như vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức chính trị xã hội, mà theo quy định của Hiến pháp thì những vấn đề quan trọng đó đòi hỏi phải được quy định trong một văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao đó là Luật của Quốc hội.
Những năm gần đây, tình trạng khiếu kiện đông người, phản đối tập thể trong việc thực hiện một số chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ở một số địa phương diễn ra ngày càng nhiều. Đặc biệt, tình trạng công dân ở một số địa phương kéo về tập trung đông ở các cơ quan Trung ương đóng tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và trước nhà riêng của các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước vào thời điểm diễn ra các kỳ họp của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Quốc hội để khiếu kiện, tố cáo, phản đối việc làm của cán bộ, chính quyền địa phương ngày càng diễn ra phức tạp. Nhiều trường hợp quá khích đã có hành vi chống lại người thi hành công vụ, gây rối trật tự công cộng, thậm chí đập phá trụ sở, phương tiện giao thông, bắt giữ trái phép người thi hành công vụ... Tình trạng đó không chỉ làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội mà còn tác động tiêu cực đến môi trường đầu tư và phát triển kinh tế, xã hội nói chung. Các cơ quan chức năng đã gặp rất nhiều khó khăn, lúng túng trong việc thi hành nhiệm vụ để giải quyết tình hình.
Một trong những nguyên nhân của tình trạng nêu trên là do chưa có một văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao để tạo ra cơ sở pháp lý phù hợp cho công dân thực hiện quyền cơ bản của mình đó là quyền biểu tình, biểu lộ ý chí, nguyện vọng chính đáng của công dân; cũng như chưa có quy định về các biện pháp bảo đảm cho các cơ quan chức năng thực thi nhiệm vụ khi có hành vi lợi dụng quyền biểu tình, quyền tự do, dân chủ để xâm phạm lợi ích chung của Nhà nước và xã hội và thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật khác.
Trong quá trình xây dựng Nghị định số 38 nêu trên, tại cuộc họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 25/8/2003 để cho ý kiến về nội dung dự thảo Nghị định này, Chủ tịch Quốc hội đã kết luận: "Nghị định này sẽ là một bước để chuẩn bị cho việc xây dựng dự án Luật về biểu tình". Đồng thời, trong Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, tại điểm 2 (mục II) về xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền con người, quyền tự do dân chủ của công dân, đã yêu cầu cần phải "xây dựng luật về biểu tình nhằm xác định rõ quyền, trách nhiệm của công dân trong việc thực thi quyền dân chủ và trách nhiệm của Nhà nước trong việc duy trì, bảo đảm kỷ cương, trật tự công cộng."
Từ những lý do nêu trên, việc đưa nội dung xây dựng dự án Luật Biểu tình vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội khóa XIII là yêu cầu cấp thiết.
Đối tượng, phạm vi điều chỉnh của Luật
Luật biểu tình sẽ quy định cụ thể về quyền và trách nhiệm của công dân trong việc thực hiện quyền tự do dân chủ đã được Hiến pháp ghi nhận, có cơ chế phù hợp nhằm bảo đảm tôn trọng quyền được biểu tình của công dân. Đồng thời, quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc duy trì, bảo đảm kỷ cương, trật tự công cộng, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh các hành vi lợi dụng quyền tự do dân chủ, lợi dụng quyền được biểu tình để gây rối trật tự công cộng, chống đối chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, xâm phạm lợi ích của tổ chức, cá nhân, xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Những quan điểm, nội dung chính của dự án Luật biểu tình
Quan điểm chỉ đạo việc xây dựng Luật
- Việc xây dựng Luật phải bám sát quan điểm của Đảng về bảo đảm thực thi quyền tự do dân chủ của công dân đã được Hiến pháp quy định cũng như việc bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội trong giai đoạn cách mạng hiện nay và những năm tiếp theo, nhằm góp phần xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh; đồng thời bảo đảm trật tự, kỷ cương xã hội trong việc thực thi các quyền tự do dân chủ đó, bảo đảm thực hiện đúng quy định của Hiến pháp là "Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân".
- Luật phải quy định đầy đủ những vấn đề cơ bản quyền và trách nhiệm của công dân trong việc thực hiện quyền tự do dân chủ, quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc duy trì, bảo đảm kỷ cương, trật tự xã hội và những vấn đề khác có liên quan, làm cơ sở pháp lý cho Chính phủ và các cơ quan chức năng ban hành văn bản quy định cụ thể và hướng dẫn chi tiết thi hành sau này.
Nội dung cơ bản của Luật:
Trên cơ sở quan điểm chỉ đạo xây dựng Dự án Luật Biểu tình và căn cứ vào đối tượng, phạm vi điều chỉnh của luật cũng như việc nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm lập pháp của các nước về biểu tình, dự kiến nội dung Luật Biểu tình sẽ bao gồm những nội dung như sau:
- Chương I: Quy định chung;
- Chương II: Quyền và trách nhiệm của công dân trong việc biểu tình;
- Chương III: Thủ tục tổ chức và tiến hành biểu tình;
- Chương IV: Trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan, tổ chức trong việc bảo đảm thực thi quyền biểu tình của công dân;
- Chương V: Điều khoản thi hành.
Dự kiến nguồn lực bảo đảm cho việc soạn thảo, ban hành và tổ chức thi hành
- Kinh phí: từ ngân sách nhà nước.
- Bộ Công an phối hợp với các Bộ và các cơ quan liên quan xây dựng.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |