1. xu hưỚng chuẩn hoá VÀ CẤu trúc giao thứC



tải về 0.71 Mb.
trang9/13
Chuyển đổi dữ liệu30.08.2016
Kích0.71 Mb.
#29478
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   13
Quá trình xử lý tế bào

Những yêu cầu đối với hệ thống chuyển mạch ATM là quá trình xử lý tế bào phải thực hiện xong trong phạm vi 1 msec trên mỗi nút, trong trường hợp xử lý thông tin CBR là 10-9 trên mỗi nút, và trong trường hợp xử lý thông tin VBR, tỷ lệ tổn thất tế bào cỡ 10-7 trên mỗi nút phải được đảm bảo chắc chắn. Ngoài ra, nó còn phải đảm bảo việc truyền đạt 100% sự hỗ trợ của tốc độ truy nhập của lớp STM-1 (155 Mbps) hoặc của lớp cao hơn trên cổng của yếu tố chuyển mạch, sự dễ dàng trong việc điều khiển phân tán và tự định tuyến, và việc đảm bảo tính môđun hoá và mở rộng tuyệt vời của tổng đài.

Mặt khác, những vấn đề quan trọng nhất có liên quan tới công nghệ chuyển mạch ATM mà nhất thiết hiện nay phải được giải quyết là đảm bảo sự hỗ trợ có hiệu quả của truy nhập điểm - đa điểm trong hệ thống chuyển mạch, hổ trợ của chức năng phân nhóm kênh được sử dụng nhằm mục đích liên kết các cổng chuyển mạch và nhóm chúng lại, sự sử dụng dung lượng lớn của hệ thống chuyển mạch ATM (ví dụ : vượt quá 1024x1024), và sự hỗ trợ của các dịch vụ vận chuyển ATM mới như ABR (tốc độ bit khả năng) và UBR (tốc độ bit không xác định).

Do mạng chuyển mạch ATM nhất thiết phải hỗ trợ cho dịch vụ phân tán như VDT mà người ta chờ đợi rằng nhu cầu của dịch vụ này sẽ tăng lên một cách mạnh mẽ, nên nó nhất định phải có chức năng truy nhập điểm đa - điểm. Để đạt được mục tiêu này, hệ thống chuyển mạch ATM cần phải có chức năng sao chép tế bào ngay trong hệ thống chuyển mạch ATM. Chức năng sao chép và trao đổi tế bào cần phải có mạng sao chép đứng trước hệ thống chuyển mạch có chức năng xử lý điểm - điểm, và những nghiên cứu về việc thực hiện chức năng truy nhập đa điểm đã và đang được bắt đầu. Như vậy, cấu trúc chuyển mạch ATM có chức năng điểm - điểm và chức năng đa điểm không có mạng sao chép riêng biệt đang được xem xét lại một cách tích cực.

Nhược điểm của hệ thống chuyển mạch ATM trước đây là sự phức tạp của phần cứng và sự tăng thêm của trễ truyền dẫn tế bào, trong khi đó nhược điểm của hệ thống sau này là sự điều khiển phức tạp do việc chức năng sao chép và xử lý phải được thực hiện đồng thời.

Do vậy, trong những hoạt động nghiên cứu được thực hiện trên mạng sao chép của hệ thống cũ, trọng tâm được nhấn mạnh vào việc làm đơn giản phần cứng và thuật toán của chức năng sao chép, trong khi đó, đối với hệ thống mới, việc nghiên cứu được tập trung chủ yếu vào cấu trúc chuyển mạch kiểu vùng đệm kết xuất hoặc kiểu vùng đệm phân chia (xem sự phân loại bởi vị trí vùng đệm ở phần sau). Bên cạnh đó, nghiên cứu với thuật toán phân phối chức năng sao chép sử dụng đa điểm đang được thực hiện một cách nghiêm túc cho việc thiết kế hệ thống chuyển mạch dung lượng lớn. Mạng sao chép của Turner sử dụng mạng banyan có bộ nhớ đệm hiện nay đang phổ biến như một mạng sao chép đã được đề nghị.

Tuy nhiên, hiệu quả của phương pháp này giảm xuống đối với tải xác định (ví dụ như khi số lượng bản sao chép vẫn giữ nguyên sự giống nhau).

Mạng sao chép của T.T.Lee đang được đề nghị để giải quyết những thiếu sót của hệ thống


Turner và nó sử dụng mạng banyan quảng bá.

Những yêu cầu kỹ thuật cần phải được giải quyết đối với việc áp dụng tổng đài ATM dung lượng lớn bao gồm điều khiển phân tán, khả năng mở rộng kích thước, sự dễ dàng trong việc tái thiết lập cấu hình dựa trên thiết kế môđun, khả năng đồng bộ đối với liên lạc khu vực, sự cải tiến trong việc tổ hợp yếu tố bằng cấu trúc thông thường, và làm giảm xuống tới mức tối thiểu sự tiêu thụ năng lượng gây ra bởi sự kết nối liên tục của đầu xa.



4.3 Phân loại của công nghệ chuyển mạch ATM

Hiện tại đã có sẵn một vài phương pháp thiết lập hệ thống chuyển mạch ATM có khả năng thoả mãn những yêu cầu và xu hướng phát triển mới nêu trên. Ví dụ như việc xử lý và phân phối tế bào về phía phần cứng có thể được xử lý bởi những thiết bị phần cứng với bộ nhớ tế bào dùng chung, mà được sử dụng chung bởi phía đầu vào và cổng đầu ra. Sự phân loại về mặt kỹ thuật của hệ thống chuyển mạch ATM được thực hiện phù hợp với các đặc trưng của các yếu tố chuyển mạch hoặc với trạng thái của khối bên trong tổng đài, với vị trí của vùng đệm tế bào trong tổng đài, và với cấu trúc tô-pô của mạng chuyển mạch. Trong phần tiếp theo, những nguyên lý cơ bản của công nghệ chuyển mạch ATM sẽ được xem xét lại dựa trên việc mô tả một loạt sự phân loại.



4.3.1 Sự phân loại bằng yếu tố chuyển mạch

Các thành phần chuyển mạch được sử dụng có thể được phân loại một cách rộng rãi thành hệ thống phân chia thời gian và phân chia không gian.





Phân loại bởi các thành phần chuyển mạch

1) Hệ thống phân chia thời gian

Hệ thống phân chia thời gian được phân loại chi tiết hơn thành hệ thống bộ nhớ dùng chung và phương tiện dùng chung, và hệ thống phân chia không gian cũng được phân loại chi tiết thành hệ thống một đường và nhiều đường.

Hệ thống bộ nhớ dùng chung là một trong những hệ thống của chuyển mạch ATM hiện đang được phát triển dựa trên những khái niệm của phương pháp chuyển mạch gói của 8 aron năm 1964 và phương pháp chuyển mạch đường, thực hiện sự phân chia thời gian đồng bộ bằng đơn vị khe thời gian. Khi sử dụng phương pháp này, các thành phần chuyển mạch được tạo thành từ bộ nhớ hai cổng dùng chung cho tất cả các cổng đầu ra và đầu vào.

Như được minh hoạ trên hình 4-3, các tế bào đến từ cổng đầu vào được ghép kênh theo trình tự và sau đó được đưa vào trạng thái nối tiếp/song song trước khi được lưu giữ trong bộ nhớ dùng chung.

Những tế bào đã đưa vào bộ nhớ dùng chung lại được liên kết tương ứng với số lượng cổng được chỉ định trong danh sách liên kết dành cho việc quản lý. Ngoài ra, các tế bào còn được phân loại cho mỗi cổng đầu ra bằng chức năng điều khiển và sau đó được đưa vào hàng đợi.



phương pháp bộ nhớ dùng chung

Các tế bào, sau khi được đưa ra từ hàng đợi đầu ra một cách tuần tự, lại được phân kênh, sau đó được biến đổi thành trạng thái nối tiếp/song song và cuối cùng được gửi ra qua kênh đầu ra.

Trong phương pháp bộ nhớ dùng chung, N cổng đầu ra lần lượt được xử lý một cách tuần tự trong một khoảng thời gian cần thiết cho việc xử lý một tế bào, và tại cùng thời điểm đó, các thành phần của bộ nhớ sẽ có dải băng rộng mà có khả năng đưa ra cùng một lúc N cổng đầu ra. Do đó, khi thừa nhận tốc độ liên kết đầu vào/đầu ra là V thì tốc độ xử lý của bộ nhớ tối thiểu phải là 2NV hoặc lớn hơn.

Như vậy trong thực tế, bộ nhớ được xây dựng theo phương pháp chia nhỏ bit một cách đồng thời nhằm mục đích khắc phục giới hạn về tốc độ xử lý của bộ nhớ.

Khi đó, nếu xem xét lại các đặc trưng của phương pháp bộ nhớ dùng chung, thì hiệu suất có thể được tăng lên tới 100% và sự thực hiện đầy đủ của nó là có thể được với một lượng nhỏ bộ nhớ. Ngoài ra, nó còn có thể khai thác danh sách kết nối riêng biệt một cách phù hợp với mức độ ưu tiên huỷ bỏ các tế bào.

Tuy nhiên, phương pháp này cũng có một vài thiếu sót sau: Kích thước của thành phần chuyển mạch được bổ sung, do giới hạn về tốc độ của bộ nhớ, là nhỏ (thông thường là nhỏ hơn 8x8) và có sự khác nhau rất lớn về mặt thực hiện, phụ thuộc vào tỷ lệ mà với nó, một bộ nhớ dùng chung được sử dụng chung cho mỗi cổng. Hơn nữa, sự tổn thất tế bào sẽ tăng lên trên cổng đầu vào bao gồm một lượng nhỏ lưu lượng khi nhiều kiểu lưu lượng không giống nhau được ghép cho mỗi cổng đầu vào hoặc khi nó yêu cầu bộ điều khiển trung tâm có khả năng điều khiển đồng thời cổng đầu vào/đầu ra.

Những ví dụ điển hình cho việc sử dụng hệ thống này là tổng đài Predule được phát triển bởi CNET của Pháp và tổng đài Hitachi của Nhật vào những năm cuối của thập kỷ 80.

Hệ thống phương tiện dùng chung, tương tự như hệ thống bộ nhớ dùng chung, cũng là một trong số những hệ thống đầu tiên của chuyển mạch ATM. Khi sử dụng hệ thống này, tất cả các tế bào đi đến cổng đầu vào đều được ghép kênh bằng phương pháp phân chia thời gian dựa trên những phương tiện truyền dẫn tốc độ cao thông dụng (bus hoặc vòng). Độ rộng dải băng của những phương tiện được sử dụng thông thường cần phải lớn hơn số N của các cổng đầu vào/đầu ra và gấp hai lần tốc độ đường tuyền V.

Hình 4-4 dưới đây sẽ minh hoạ việc sử dụng bus như là một sự chia sẻ phương tiện. Mỗi cổng đầu ra được kết nối với phương tiện dùng chung thông qua bộ lọc địa chỉ và vùng đệm kiểu FIFO. Bộ lọc địa chỉ lọc ra các địa chỉ của cổng đầu ra bên trong của những tế bào được sử dụng cho việc quảng bá trên các phương tiện và sau đó lưu giữ chúng trong vùng đệm kiểu FIFO tương ứng với cổng đầu ra.




Каталог: Hoc%20Tap -> Cong%20Nghe%20Wan
Hoc%20Tap -> Point to Point Protocol (ppp) ppp được xây dựng dựa trên nền tảng giao thức điều khiển truyền dữ liệu lớp cao (High-Level Data link Control (hdlc)) nó định ra các chuẩn cho việc truyền dữ liệu các giao diện dte và dce của mạng wan như V
Hoc%20Tap -> Cấu hình Application Port-Mapping với cbac mục tiêu: Cấu hình để router nhận ra các ứng dụng không sử dụng port chuẩn. Mô hình
Hoc%20Tap -> ĐẢng cộng sản việt nam đẢng ủy phưỜng 04
Hoc%20Tap -> CiR = Bc / Tc
Hoc%20Tap -> Mean command : ip ospf mtu-ignore Diagram : Problems
Hoc%20Tap -> R1# ip route 0 0 0 0 FastEthernet0/0 R2# show run
Cong%20Nghe%20Wan -> Hoàng Đăng Hải Học Viên: Lê Đăng Phong [1-22] Vũ Anh Tuấn
Cong%20Nghe%20Wan -> Câu hỏi về kết nối chi nhánh về Head Office dùng wan
Cong%20Nghe%20Wan -> 1/ Cáp đồng gshdsl

tải về 0.71 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   13




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương