1. phép lạ thánh thể ĐẦu tiên khoảng năm 700 Tại làng Lanciano, nước Ý (italy)



tải về 0.77 Mb.
trang5/11
Chuyển đổi dữ liệu28.07.2016
Kích0.77 Mb.
#8592
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11

5. PHÉP LẠ TẠI BLANOT, NƯỚC PHÁP

Năm 1331 

(Joan Carroll Cruz, Phép Lạ Thánh Thể, Chương 17, Regina xb, USA, 2002) 

Ngôi làng Blanot nằm trong một thung lũng hẹp và dài, được những ngọn núi thơ mộng bao quanh. Tuy ẩn khuất vì địa thế, nhưng ngôi làng này lại được Thiên Chúa ưu đãi và tôn vinh bằng một phép lạ Thánh Thể. Bằng chứng của phép lạ này hiện vẫn đang được lưu giữ tại ngôi thánh đường đã xảy ra phép lạ.

Trước khi kể lại phép lạ, tốt nhất nên nhớ lại cách cho rước lễ hồi thế kỷ XIV (hiện nay vẫn còn ở nhiều nơi). Trong thánh lễ, khi đến giờ hiệp lễ, cộng đoàn sẽ đi lên hàng song ngăn cách phần nhà thờ với cung thánh. Sau khi đã lấy chỗ dọc theo chiều dài của hàng song, họ sẽ quì xuống. Cùng lúc đó, hai người giúp lễ cũng đến hàng song, mỗi người quì ở một đầu. Họ sẽ cầm tấm khăn dài treo dọc theo hàng song, ở phía bên cung thánh, mỗi người một đầu và phủ lên hàng song. Cộng đoàn sẽ đặt tay bên dưới tấm khăn ấy. Vị linh mục cầm bình đựng Mình Thánh sẽ đi xuống và cho cộng đoàn rước lễ dọc theo hàng song. Vào thời kỳ phép lạ này xảy ra, làng Blanot đang áp dụng cách cho rước lễ như thế.

Phép lạ xảy ra vào Chúa Nhật Phục Sinh, ngày 31 tháng 3 năm 1331, vào thánh lễ thứ nhất, do linh mục Hugues de la Baume, cha phó của giáo xứ Blanot cử hành. Vì tính cách trang trọng của dịp lễ, nên ngoài các em lễ sinh, còn có hai ông tên là Thomas Caillot và Guyot Besson giúp thêm vào đó. Đến giờ hiệp lễ, hai ông này đến hàng song và lấy chỗ ở hai đầu rồi phủ tấm khăn dài lên hàng song. Các giáo hữu khác cũng đã vào chỗ, đặt tay xuống dưới tấm khăn và chờ đợi vị linh mục.

Một trong những người rước lễ cuối cùng hôm ấy là bà Jacquette, góa phụ của ông Regnaut d’Effour. Vị linh mục trao Mình Thánh vào lưỡi bà rồi quay trở lên bàn thờ. Chính lúc ấy, hai người đàn ông và một vài giáo hữu khác nhìn thấy Mình Thánh rớt khỏi miệng người đàn bà và rơi trên trên tấm khăn phủ tay bà. Khi vị linh mục vừa đặt bình thánh vào nhà tạm, ông Thomas Caillot đến gần và thông báo sự việc cho ngài. Vị linh mục lập tức rời bàn thờ và đi xuống hàng song; nhưng thay vì nhìn thấy Mình Thánh, ngài nhìn thấy một vết máu to bằng Bánh Thánh, rõ ràng Bánh Thánh đã tan trong vết máu này.

Khi thánh lễ kết thúc, vị linh mục đưa tấm khăn vào phòng áo và đặt chỗ vết máu vào chậu nước sạch. Sau khi giặt chỗ máu, và dùng các ngón tay chà nhiều lần vào chỗ ấy, ngài thấy vết máu không nhạt đi và biến mất, nhưng càng lúc càng lan ra và thẫm hơn. Khi lấy khăn khỏi chậu, ngài ngạc nhiên thấy nước đã biến thành máu. Vị linh mục và những người giúp ngài không những kinh ngạc, mà còn hoảng hốt và kêu lên, “Đây là Máu Thánh của Chúa Giêsu Kitô!” Sau đó, vị linh mục lấy một chiếc dao, rửa sạch và cắt lấy phần vải mang dấu máu của tấm khăn. Miếng vải hình vuông này đã được lưu giữ một cách kính cẩn trong nhà tạm.

Mười lăm ngày sau đó, một vị chức sắc của tổng giáo phận Autun là Jean Jarossier đã đến giáo xứ Blanot và khởi sự điều tra. Cùng đi với ngài có cha sở de Lucenay, một đức ông thuộc giáo phận và một viên lục sự của tòa giám mục. Cuộc chất vấn các nhân chứng được thực hiện dưới sự chứng kiến của cha Pierre Osnonout, cha sở giáo xứ Blanot. Các kết quả của cuộc điều tra này được đức tổng giám mục Pierre Bertrant đệ trình lên đức giáo hoàng John XXII, và ngài đã ra một tuyên ngôn chuẩn thuận và ban các ân xá cho những ai đến cử hành thánh lễ tại nhà thờ giáo xứ Blanot. Những bản tài liệu này hiện còn được giữ tại tòa thị sảnh Blanot và được mô tả viết theo một lối viết cổ rất khó đọc.

Các Bánh Thánh còn lại trong bình thánh sau giờ hiệp lễ Chúa Nhật Phục Sinh hôm ấy không được phân phát nữa, nhưng được lưu giữ kính cẩn trong nhà tạm. Nguyên nhân của việc này vẫn chưa rõ, mặc dù người ta cho là vị linh mục muốn tránh khả năng lặp lại điều kỳ diệu trên. Vào năm 1706, những Bánh Thánh này vẫn còn trong tình trạng nguyên vẹn sau 375 năm đã được tôn kính trong cuộc cung nghinh dài năm tiếng đồng hồ quanh giáo xứ Blanot nhân dịp kỷ niệm phép lạ. Tham dự trong cuộc rước có nhiều đấng bậc và rất đông đảo con chiên trong giáo xứ và những vùng lân cận. Lúc bế mạc cuộc cung nghinh, chiếc bình thánh bằng bạc đựng các Bánh Thánh đã được đặt vào chiếc hộp bằng vàng để cất giữ. Hộp này được cẩn thận đặt vào nhà tạm chính của nhà thờ.

Suốt nhiều năm, những cuộc cung nghinh kỷ niệm và những hoạt động đặc biệt khác đã được tổ chức, nhưng tất cả đều bị gián đoạn khi cuộc Cách Mạng Pháp bùng nổ, vì các kẻ quá khích bạo loạn đã phạm thánh các nhà thờ Công Giáo và cướp đi các đồ vật giá trị.

Vào ngày 27 tháng 12 năm 1793, một nhóm người tạo phản xông vào nhà thờ và cả gan mở cửa nhà chầu. Miếng khăn thấm máu khi ấy được đặt trong một chiếc ống pha lê thực sự đã được trao cho một người trong bọn, nhưng may mắn thay hắn đã vứt lại như một thứ kém giá trị. Sau sự kiện phạm thánh nhà thờ, thánh tích đã được trao cho một giáo hữu đạo đức tên là Dominique Cortet gìn giữ. Trong thời gian tại nhà ông này, thánh tích được tôn kính và bảo quản cẩn thận, tuy nhiên, chiếc ống đã bị bể ở cả hai đầu. Một đầu vỡ là do linh mục M. Lucotte, cha sở giáo xứ Blanot thường hay hôn kính thánh tích và đặt lên mắt các tín hữu. Đầu kia bị vỡ một cách tình cờ khi thánh tích được giấu trong ngăn kéo của một chiếc tủ.

Sau cuộc cách mạng, lúc hòa bình đã được vãn hồi, nhiều người đã được chất vấn về tính cách xác thực của tấm khăn trong chiếc ống pha lê. Mọi người đều nhận thực đó chính là tấm khăn đã từng được giữ tại nhà thờ. Sau khi các vị có thẩm quyền trong Giáo Hội đã thỏa đáng về tính cách xác thực, thánh tích đã được long trọng rước về nhà thờ và đặt trong một chiếc hộp bọc nhung, rồi được giữ trong nhà tạm.

Một thời gian sau đó, người ta đã làm một chiếc ống pha lê mới để đựng thánh tích. Ở hai đầu có những vòng vàng và đồng, với một cây thánh giá ở trên chóp. Chiếc ống, bên trong có tấm khăn có thể được nhìn thấy rõ ràng, được niêm kín và được đặt vào một mặt nhật đặc biệt. Phần đế của mặt nhật được trang trí bằng bốn mảnh men sứ, trình bày các biến cố trong lịch sử của thánh tích.

Hằng năm vào thứ Hai sau lễ Phục Sinh, theo tập quán từ xưa, thánh tích đã được long trọng đem bày kính công khai tại nhà thờ giáo xứ Blanot.

 

6. PHÉP LẠ TẠI AMSTERDAM, NƯỚC HÒA LAN

Năm 1345

(Joan Carroll Cruz, Phép Lạ Thánh Thể, Chương 18, Regina xb, USA, 2002) 

 Phép lạ Thánh Thể tại Amsterdam xảy ra vào ngày 15 tháng 3 năm 1345, tại một ngôi nhà trên đường Kalver, nơi có một người đàn ông tên Ysbrant Dommer lâm bệnh nguy tử và được cha sở đưa Của Ăn Đàng. Ngay khi vị linh mục vừa rời khỏi ngôi nhà, bệnh nhân đau đớn kịch liệt, và thổ ra tất cả những gì trong bao tử. Người đàn bà túc trực đã dọn tất cả những thứ ấy vào một cái chậu và đổ vào ngọn lửa cháy phừng phừng trong lò sưởi.

Sáng hôm sau, khi đến lò sưởi để khơi lửa lên, người đàn bà này sửng sốt khi nhìn thấy Mình Thánh, còn nguyên vẹn và sáng láng, nằm ở giữa những cục than hừng hừng. Bà tức khắc lấy Bánh Thánh ra khỏi lửa, cẩn thận đặt trong một tấm vải sạch và cất vào một chiếc rương.

Vị linh mục liền được mời đến, ngài đặt Bánh Thánh vào một chiếc hộp và rửa miếng vải đã bọc Bánh Thánh. Sau đó, ngài đưa Mình Thánh về nhà thờ giáo xứ thánh Nicholas (hiện nay là tài sản của một người ngoại giáo).



Sáng hôm sau, vị linh mục thấy chiếc hộp rỗng không, nhưng Mình Thánh lại được người đàn bà kia phát hiện khi mở rương để lấy một số khăn vải. Một lần nữa, vị linh mục lại được mời đến để đưa Bánh Thánh về nhà thờ. Sau đó, Bánh Thánh lại biến mất và lại được tìm thấy, vị linh mục liền hội họp các giáo sĩ khác để tham vấn. Mọi người đều đồng ý những sự kiện tái diễn kia là chứng cứ trực tiếp của quyền năng Thiên Chúa, và rõ ràng là một dấu chỉ muốn phép lạ ấy phải được tôn kính công khai. Bánh Thánh phép lạ sau đó đã được cung nghinh long trọng về nhà thờ giáo xứ.

Một cuộc điều tra chính thức đã được ngài thị trưởng cùng hội đồng thành phố xúc tiến, mọi người đều chấp nhận về tính cách xác thực của các chứng nhân. Họ xác nhận sự kiện và chuẩn nhận phép lạ ấy trong các văn kiện chính thức. Về phía giáo quyền, đứng đầu là đức giám mục Utrecht, cũng xúc tiến một cuộc điều tra rộng rãi trước khi cho các giáo sĩ phổ biến thông tin về sự kiện.

Ngôi nhà nơi phép lạ xảy ra chẳng mấy chốc đã biến thành ngôi nhà nguyện được gọi là Nieuwe Zijds, tức là Nơi Thánh – không những vì phép lạ đã xảy ra, mà Bánh Thánh phép lạ còn được lưu giữ trên bàn thờ tại đây. Lò sưởi nơi phép lạ xảy ra đã được bảo quản.

Khoảng 100 năm sau, vào năm 1452, một trận hỏa hoạn lớn đã thiêu rụi hầu hết thành phố Amsterdam và đe dọa nguyện đường Nơi Thánh. Vì cố gắng cứu Bánh Thánh phép lạ – người ta đã mời những người thợ làm khóa đến để mở cửa nhà tạm – nhưng các nỗ lực đều thất bại khi những dụng cụ đều gãy hỏng, đồng thời ngọn lửa cùng sức nóng buộc họ phải thối lui. Khi ngọn lửa bị dập tắt, người ta lại thấy một phép lạ khác: nằm giữa đống hoang tàn nghi ngút khói là chiếc bình đựng Bánh Thánh phép lạ còn nguyên vẹn, kể cả tấm khăn đậy bằng lụa.

Một bảng liệt kê rất dài các ơn đặc biệt người ta đã được lãnh nhận trước ngày cuộc hỏa hoạn xảy ra đã được dựng lên khi ngôi nguyện đường được tái thiết. Những đám đông tuốn đến và tham dự cuộc cung nghinh hằng năm kỷ niệm ngày phép lạ xảy ra.

Đến thời điểm này trong lịch sử của phép lạ, chúng ta hãy hướng sự chú ý về các nữ tu dòng thánh Begga, vị thánh đã từ bỏ một ngôi làng nhỏ gần Amsterdam để thiết lập một cộng đoàn gần nơi xảy ra phép lạ. Cộng đoàn này về sau được gọi là Beguines, tức là các phụ nữ giáo dân sống chung trong một cộng đoàn phức hợp và tuyên giữ các lời khấn tạm về đức vâng phục và đức khiết tịnh, nhưng không tuyên lời khấn khó nghèo, vì họ được phép sở hữu và sử dụng tài sản riêng tùy ý. Họ tập họp nhau dâng thánh lễ và cầu kinh, nhưng được phép đến hay đi tùy ý. Nhiều thành viên dấn thân trong các công cuộc giáo dục và từ thiện. Môi trường của họ cũng khác thường vì mỗi phần tử sống trong một ngôi nhà nhỏ riêng biệt, thông với ngôi nhà của các phần tử khác. Những ngôi nhà này xếp thành hình vuông, ở giữa là một khoảng sân. Một trong những ngôi nhà ấy được dùng làm nhà nguyện và được nới rộng thêm theo năm tháng. Toàn bộ khu vực ấy được gọi là Begijnhof.

Vào thời kỳ Cải Cách Tin Lành, khi ngôi nhà nguyện bị giới chức thành phố tịch thu, Bánh Thánh phép lạ được trao cho các bà Beguines gìn giữ. Lòng sùng kính và các việc đạo đức đã thành truyền thống trước kia vẫn tiếp tục được thực hiện. Nhưng vào năm 1607, nơi nương ẩn cuối cùng này cũng bị đóng cửa, mặc dù tại tòa nhà nhỏ nối với nhà nguyện của các bà Beguines, các việc đạo đức tư vẫn được duy trì. Dần dần, hoàn cảnh cho phép, tòa nhà tại Begijhof được nới rộng; nhưng mãi đến năm 1845, nhân dịp kỷ niệm 500 năm phép lạ, một cuộc biểu dương công khai vĩ đại mới được tổ chức. Từ đó, hằng năm đều tổ chức dịp kỷ niệm phép lạ.

Ngoài những hoạt động hằng năm, các cuộc rước mang tính cách cá nhân quanh năm vẫn diễn ra suốt từ thời kỳ phép lạ, và vẫn tiếp tục trong thời kỳ cuộc Cải Cách Tin Lành. Những cuộc rước ấy được gọi là “những cuộc rước âm thầm,” bởi vì các tín hữu thầm lặng đi trên Con Đường Thánh như một hành vi đạo đức tư. Các cuộc rước cá nhân hiện vẫn diễn ra, nhưng vào ngày vọng trước dịp kỷ niệm phép lạ hằng năm, nhất là trong đêm ấy và từng giờ trong chính ngày kỷ niệm, dường như có đông đảo tín hữu tham gia hơn.

Ngôi nhà nguyện nhỏ nơi phép lạ xảy ra đã bị phá hủy vào năm 1908 vì các cuộc phản kháng của cả Công Giáo lẫn Tin Lành. Tuy nhiên, ngôi nguyện đường nhỏ bé ấy không đi vào quên lãng, vì hình ảnh của nó đã được giữ lại trên khung cửa sổ kính màu trong nhà nguyện của dòng Begijnhof. Hơn nữa, phía sau bàn thờ chính có một cửa sổ kính màu diễn tả phép lạ; và trên những bức tường hai bên đều có những họa phẩm vẽ lại các cuộc cung nghinh thời trung cổ.

Để ghi nhớ phép lạ, Thánh Thể hằng ngày đều được đặt chầu trong ngôi nhà nguyện này. Như thế, Amsterdam đã trở thành một địa điểm hành hương cho toàn thể đất nước Hòa Lan.

 

7. PHÉP LẠ TẠI MACERATA, NƯỚC Ý

Năm 1356

(Joan Carroll Cruz, Phép Lạ Thánh Thể, Chương 19, Regina xb, USA, 2002) 

Các tín hữu Công Giáo tại Macerata tự hào rằng thành phố của họ có thể được gọi là thành phố của Phép Thánh Thể – và điều này có hai nguyên nhân: bởi vì phép lạ Thánh Thể đã từng xảy ra tại đây; và bởi vì đây là thành phố đầu tiên trên thế giới tổ chức một đoàn thể tôn vinh Thánh Thể.

Phép lạ đã xảy ra tại Macerata vào buổi sáng ngày 25 tháng 4 năm 1356, trong lúc một vị linh mục đang cử hành thánh lễ tại nhà thờ của các nữ tu dòng Biển Đức. Khi vừa bắt đầu nghi thức truyền phép, ngài có một thoáng hồ nghi về sự hiện diện thực sự của Chúa Kitô, lúc bẻ Bánh Thánh, bất ngờ máu tươi từ hai bên mép của Bánh Thánh liền nhỏ ra! Vị linh mục lúc ấy được tràn đầy đức tin và sốt sắng, đôi tay của ngài run rẩy đã làm cho máu từ Bánh Thánh nhỏ ra bên ngoài chén thánh, dính vào khăn thánh ở phía dưới.

Lúc kết thúc thánh lễ, vị linh mục vội vã báo tin cho đức giám mục Nicolo thánh Martino, và đức giám mục ban lệnh phải đưa tấm khăn thánh dính máu đến nhà thờ chính tòa để được điều tra theo Giáo Luật. Phép lạ này được so sánh với phép lạ đã xảy ra tại Bolsena gần 100 năm về trước, phép lạ đã đưa đến việc thiết lập lễ kính Mình Máu Thánh Chúa.

Sau khi tính cách xác thực đã được ủy ban giáo luật thừa nhận, tấm khăn thánh dính máu đã được tôn kính công khai.

Mặc dù không thể tìm được một văn liệu chính thức nào từ thời ấy trong văn khố của thành phố Macerata, tuy nhiên nhà sử học danh tiếng Ignazio Compagnoni, trong thủ bản thứ tư của ông, đã kể lại các chi tiết của phép lạ và tường trình rõ ràng về việc ủy ban công nhận tính cách xác thực của thánh tích. Các bản tường trình có từ thời phép lạ và những tuyên ngôn sau đó của nhiều vị giám mục và tổng giám mục (đặc biệt là của đức hồng y Centini vào năm 1622) đã xác nhận tính cách xác thực của thánh tích này. Các vệt máu vẫn được thấy rõ ràng trên tấm vải đã được mọi người coi là Máu Thánh của Đấng Cứu Thế.

Các tài liệu từ năm 1647 nói đến một người tên Orazio Longhi đã dâng cúng cho nhà thờ chính tòa một bình đựng quí giá bằng bạc và pha lê để tôn trưng thánh tích. Vào năm 1649, đức cha Silvestri tổ chức một cuộc rước kiệu và một nghi thức long trọng để tôn vinh khăn thánh – những kỳ lễ này được rất đông các tín hữu tham dự.

Thánh tích vẫn được bày kính công khai mãi cho đến 1807, khi vua Napoleon bắt đầu đe dọa nước Ý và Giáo Hội. Khi Napoleon giải thể các đoàn hội và đình chỉ các cuộc rước truyền thống, tấm khăn thánh được giấu trong một chiếc tủ đặt phía sau bàn thờ trong vương cung thánh đường. Tấm khăn vẫn được giữ ở đó trong suốt thời gian này cũng như trong cuộc biến động chính trị làm bất ổn nước Ý vào giữa thế kỷ XIX. Tuy vậy, trong những năm ấy, người ta vẫn không quên được tấm khăn. Vào ngày 10 tháng 10 năm 1861, đức cha Zangari đã xác nhận tấm khăn, và sau đó đến ngày 15 tháng 9 năm 1885, đức cha Galeati đã tái xác nhận tính cách xác thực của tấm khăn thánh.

Tấm vải quí giá này sau cùng đã được đưa ra khỏi nơi cất giấu vào năm 1932. Sau khi được xác nhận hợp lệ, tấm khăn đã được đặt trong một khung kính và được bày kính liên tục tại nguyện đường Bí Tích.

Kích thước của chiếc khăn rất thuận tiện cho người xem. Chiều dài là 4 feet 2.5 inches (khoảng 1,27 m), và chiều rộng là 1 foot 4 inches (khoảng 0,4 m), lớn hơn những khăn thánh chỉ rộng bằng chiếc khăn tay đang được sử dụng rộng rãi ngày nay. Tuy vậy, người ta tin rằng tấm khăn thánh này đã được gấp đôi trong thánh lễ phép lạ đã xảy ra, bởi vì hai vết máu khít vào nhau khi tấm vải được gấp lại.

Một số các nếp gấp khác cũng hiện rõ trên tấm vải. Có năm nếp gấp ngang và bảy nếp gấp dọc. Ngoài những vết máu, còn có thể nhận ra các vết mốc và một vài giọt sáp nhỏ.

Được biết không thể sử dụng việc phân tích hóa học cho thánh tích, bởi vì các thế kỷ đã làm cho các chất không phải là tơ vải trở nên đồng nhất với nhau; vì vậy, chỉ có thể thực hiện việc quan sát hình thể mà thôi.

Tính xác thực của tấm khăn thánh đã được xác định theo ba phương cách. Thứ nhất, tấm vải (theo mô tả, được dệt khá đẹp và đã ố vàng theo thời gian) đã được các học giả giám định có từ thế kỷ XIV. Thứ hai, lớp giấy kết dính với tấm khăn có những hình chữ kiểu Gothic, đã được các nhà bác học giám định có từ thời kỳ của phép lạ xảy ra. Thứ ba, mặc dù không còn một tài liệu chính thức nào được lưu giữ, nhưng có rất nhiều thủ bản do các tác giả nổi tiếng vào thời kỳ ấy đã đề cập đến lịch sử và thừa nhận tính cách lịch sử của tấm khăn.

Tấm khăn thánh có thể được nhìn thấy trong một nguyện đường mới trong nhà thờ chính tòa Macerata, nơi đây tấm khăn được tôn kính đặc biệt vào ngày lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô và trong tuần bát nhật của lễ này.

  

8. PHÉP LẠ TẠI BRUSSELS, NƯỚC BỈ



Năm 1370

(Joan Carroll Cruz, Phép Lạ Thánh Thể, Chương 20, Regina xb, USA, 2002) 

 Phép lạ Thánh Thể tại Brussels, nước Bỉ xảy ra vào thời kỳ có cuộc đối kháng quyết liệt giữa một số tín hữu Kitô Giáo và những người Do Thái. Dường như vào năm 1369, có một người Do Thái tên là Jonathan cư ngụ tại thị trấn Enghien nhỏ bé, cách Brussels chừng 15 dặm. Jonathan có một người bạn là Jean, quê ở Louvain (khi ấy đang sống tại Brussels), người bạn này sau đó đã giả vờ trở lại Kitô Giáo.

Jonathan nài nỉ người bạn kiếm cho anh ta một vài Bánh Thánh đã được sử dụng trong thánh lễ. Lúc đầu Jean không chịu nghe theo, vì thế sau cùng Jonathan đã hứa thưởng 60 đồng tiền vàng nếu Jean chịu làm việc này. Lòng tham cuối cùng đã chiến thắng lương tâm của Jean, và anh ta lập tức dò la các nhà thờ tại Brussels để kiếm cách xâm nhập. Sau cùng, hắn quyết định chọn nhà thờ thánh nữ Catharine, ngôi nhà thờ này chỉ được một ông từ coi sóc qua loa bởi vì nhà thờ này lưu giữ Thánh Thể cho các bệnh nhân.

Vào đêm ngày 4 tháng 10 năm 1369, Jean bắc một chiếc thang lên tường nhà thờ, đục một cửa sổ và lẻn vào bên trong. Sau khi đã mở cửa nhà tạm, hắn tìm thấy một bình vàng, bên trong có 15 Bánh Thánh nhỏ và một Bánh Thánh lớn được dùng trong giờ chầu phép lành. Sau khi rời nhà thờ, hắn đến Enghien và trao các Bánh Thánh lại cho Jonathan, tên này thưởng cho hắn một bọc tiền đủ số như đã hứa trước.

Số phận của tên trộm không được rõ, nhưng người ta kể lại Jonathan đã bị giết chết trong khu vườn nhà hắn không đầy hai tuần sau vụ trộm – trước sự hoảng hốt của người con trai nhỏ của y. Sau đó một thời gian, người vợ góa của Jonathan đã đi đến thành phố Brussels và mang theo chiếc bình với các Bánh Thánh bên trong.

Vào ngày 4 tháng 4 năm 1370, nhằm thứ Sáu tuần Thánh, những người Do Thái tụ tập trong hội đường của họ tại Brussels. Sau khi đặt các Bánh Thánh trên bàn, họ tàn đãi và báng bổ thậm tệ. Sau khi phạm thánh một lúc, họ rút dao ra và đâm xuyên qua các Bánh Thánh.

Tức thì trước những cặp mắt sững sờ của bọn Do Thái, máu đã vọt chảy ra từ các vết đâm. Hơn nữa, các vũ khí của bọn tấn công rơi ra khỏi tay chúng, chúng run rẩy và ngã lăn xuống đất kinh hoàng.

Để xong mình với các Bánh Thánh chảy máu này, bọn Do Thái đã ép buộc một phụ nữ tân tòng tên là Catharine đồng ý đưa các Bánh Thánh đến cho những người Do Thái tại Cologne. Nhưng vì cảm thấy hối hận và xao xuyến cực độ, chị ta đã quyết định đem toàn bộ vấn đề kể cho cha sở nhà thờ Đức Bà là linh mục Pierre Van den Eede. Phụ tá của đức giám mục Cambrai à Brussels là cha Jean d’Yssche cũng được báo tin về vụ lấy cắp này, và cùng với một ủy ban các giáo sĩ khác, ngài đã hết sức xúc động khi nhận lại các Bánh Thánh từ tay Catharine.

Sau khi được thu hồi, các Bánh Thánh đã được đưa đến nhà thờ Notre Dame de la Chapelle. Một ít Bánh Thánh được lưu giữ tại đây, các Bánh Thánh còn lại được cung nghinh trong cuộc rước đền tạ long trọng đến nhà thờ chính tòa thánh Michael được tổ chức vào tháng 5 năm 1370. Các Bánh Thánh được các giáo sĩ thành phố hộ kiệu, cùng với tu sĩ các dòng Hành Khất, ngài công tước cùng phu nhân xứ Brabant, và rất đông các hiệp sĩ, các nhà quí tộc và công dân của thành phố, cùng với nến sáng, hương thơm và những bài thánh ca chúc tụng, trong khi đường kiệu được trang trí lộng lẫy để tôn vinh Thánh Thể. Giữa niềm hân hoan và xúc động dạt dào, các Bánh Thánh đã được tôn kính tại một nguyện đường trên ca đài cho đến khi một nguyện đường mới xứng đáng hơn được xây dựng. Sáu Bánh Thánh đã bị hủy hoại hoàn toàn trong ngày tội ác. Sau cùng, ba Bánh Thánh đã được đặt vào một bình pha lê được cẩn vào giữa một hình thánh giá bằng vàng.

Sau những cuộc điều tra, có hai bản tường trình khác nhau liên quan đến số phận sau cùng của bọn phạm thánh. Một bản ghi rằng vua Wenceslas, cai trị vùng Brussels vào thời kỳ ấy, đã cho bắt và xử bọn Do Thái; chúng đã thú nhận hành vi của mình và hậu quả là bị hỏa thiêu. Một bản ghi rằng cộng đồng Do Thái đã trừng trị bọn bị kết án ấy bằng hình phạt đày khỏi xứ.

Trong những năm tháng biến động 1579–1585, khi những người bè Calvin báng bổ các thánh đường và phá hủy các thánh tích và tượng ảnh, các Bánh Thánh được lưu giữ tại nhà thờ Notre Dame de la Chapelle đã biến mất. Những Bánh Thánh được đặt trong hình thánh giá tại nhà thờ thánh Michael lúc đầu được giấu tại bệnh viện Mười Hai Tông Đồ, và sau đó được giấu vào lỗ khoét trong một cây xà bằng gỗ tại nhà thờ thánh Michael. Khi những người theo bè Calvin lục lọi tìm các Bánh Thánh, họ đã đứng ngay bên dưới cây xà này khi đi vào – mà không biết rằng các Bánh Thánh đang ở ngay trên đầu.

Một thời kỳ bất ổn khác cho Giáo Hội tại Brussels là năm 1794, trong thời kỳ cuộc Cách Mạng Pháp, khi những thanh đồng thau và các đồ trang trí giá trị bị cướp đoạt, các bức thảm, các bình đựng bằng bạc hoặc bị phá hủy hoặc bị đánh cắp. Người ta cũng cướp đi các bức tranh của Venius, Rubens và Van Dyck. Tuy nhiên, một bộ tranh diễn tả các biến cố lịch sử của phép lạ đã được gìn giữ, và hiện nay ta có thể nhìn thấy trong nhà thờ thánh Michael.

Muốn hiểu biết và trân trọng phép lạ này, điều quan trọng là chúng ta phải xét đến vì sao biến cố phép lạ này đã được trình bày trên các khung cửa sổ kính màu, các bức họa, các tượng điêu khắc và các bức trướng, những vật đã thu hút vô số tín hữu hành hương và du khách. Trước tiên, chúng tôi xin trình bày một số thông tin về chính ngôi nhà thờ chính tòa.

Ngay từ khởi đầu, ngôi nhà thờ này đã mang tên thánh Michael. Nhưng vào thế kỷ XII, với phong trào sùng kính thánh Gudule lên đến đỉnh cao, tên nhà thờ được đổi lại và mang tên thánh Gudule, và hài cốt của thánh nhân đã được tôn kính tại nhà thờ này từ năm 1047. Vào tháng 2 năm 1962, tên của nhà thờ được đổi lại một lần nữa và nhận tên thánh Michael như trước, để phù hợp với đấng thánh bổn mạng nguyên thủy của nhà thờ. Nhưng một số tài liệu về lịch sử và kiến trúc cũng như một vài tài liệu du lịch đã đơn giản ghi sai lầm ngôi nhà thờ này là nhà thờ chính tòa thánh Gudule.

Tại nhà thờ chính tòa thánh Michael có hài cốt nhiều nhân vật quí phái cả về danh hiệu lẫn chức quyền. Nhà thờ này cũng là một điển hình về lối kiến trúc Gothic từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XVII. Ngôi nhà thờ ban đầu đã bị phá hủy, được tái thiết và mở rộng nhiều lần. Tuy nhiên có một vài chỗ thuộc ngôi nhà thờ ban đầu vẫn được giữ lại như giếng rửa tội có từ thế kỷ IX, và phòng áo từ thế kỷ XII. Dĩ nhiên, ngôi nhà thờ này được nổi tiếng nhờ việc lưu giữ các Bánh Thánh phép lạ năm 1370 trong một nguyện đường đã được xây dựng trong khoảng các năm 1534-1539.

Một trong những cửa sổ kính màu trong nhà thờ chính tòa có hình người vợ góa của Jonathan trao các Bánh Thánh cho những người Do Thái; một cửa sổ khác có hình các Bánh Thánh được cung nghinh từ nhà thờ Notre Dame de la Chapelle đến nhà thờ chính tòa thánh Michael. Một cửa sổ khác có hình các Bánh Thánh được giao cho đức cha John Hauchin, tổng giám mục Mechlin, người trước kia đã từng phụ trách nhà thờ thánh Michael. Ba cửa sổ khác có hình những biến cố trong lịch sử của phép lạ.

Hoàng đế Charles V dâng cúng cho nhà thờ chính tòa những cửa sổ kính màu lộng lẫy. Trong số này, có một cửa sổ có hình hoàng đế và hoàng hậu là Isabella xứ Bồ Đào Nha trong tư thế thờ lạy Thiên Chúa Cha, Đấng cho hai vị nhìn thấy cây thánh giá bằng vàng với ba Bánh Thánh phép lạ bên trong. Vòm khải hoàn trong nhà thờ cũng là vật dâng cúng của hoàng đế để tôn vinh phép lạ, ngoài ra còn bốn cửa sổ kính màu khác nữa. Những cửa sổ này có hình các vị thánh được sùng mộ, phần trên các cửa sổ trình bày các sự kiện đặc trưng liên quan đến phép lạ. Một cửa sổ khác, được làm vào năm 1542 nhưng về sau bị phá hủy, cũng có hình hoàng đế, hoàng hậu, và các vị thánh quan thày của họ. Thay thế vào chỗ này hiện nay có một cửa sổ được làm vào năm 1848, trình bày sự hiển vinh của phép lạ. Một cửa sổ kính màu ở phía bên trái cửa sổ này có hình hoàng đế, hoàng hậu, và các con là Philip, Mary và Joan, cùng các vị thánh bổn mạng của họ đang tôn kính phép lạ.

Trên một bàn thờ có hình của thánh Michael và thánh Gudule cùng những vị thánh được tôn kính trong nhà thờ, trong khi bên dưới bàn thờ có ba bức tượng điêu khắc diễn tả các biến cố của phép lạ. Thú vị là phía sau bàn thờ, chống vào tường là một phần của cây xà bằng gỗ có lỗ khoét rất kín, nơi các Bánh Thánh phép lạ đã được giấu trong suốt thế kỷ XVI đầy biến động.

Những giai đoạn lịch sử của phép lạ đã được vẽ lại trên các tấm trướng Gobelin hằng năm được treo vào tháng Bảy và tháng Tám tại các cây cột trong ca đài. Việc trưng hình vào tháng Bảy chắc chắn đã bắt đầu rất sớm trong lịch sử của phép lạ, vào thời kỳ khi ngày lễ ghi nhớ phép lạ được cử hành bằng một cuộc cung nghinh long trọng hằng năm vào Chúa Nhật sau ngày 15 tháng Bảy; việc này đã được tổ chức hằng năm trong nhiều thế kỷ. Một tấm trướng thường xuyên được treo từ năm 1770 vẽ cảnh một phép lạ chữa bệnh kỳ diệu xảy ra trước các Bánh Thánh.

Tất cả những tác phẩm và công trình nghệ thuật đầy hấp dẫn này được in trong một quyển sách hướng dẫn về nhà thờ chính tòa xuất bản vào năm 1975. Cũng trong quyển sách này có một lời chú thích gây đầy ngạc nhiên như sau:

Vào ngày 30 tháng 12 năm 1968, các vị có thẩm quyền trong tổng giáo phận Malines-Brussels tuyên ngôn rằng các lời tố cáo về vụ trộm và phạm thánh đối với bí tích Thánh Thể vào năm 1369-1370 chống lại cộng đồng người Do Thái tại Brussels là vô căn cứ.

Các du khách và các tín hữu hãy đặt các bức hình trong nhà thờ chính tòa vào bối cảnh lịch sử chính xác và đừng hiểu sai việc tôn thờ bí tích Thánh Thể.

Những nguyên nhân của lời đính chính này không được nói rõ, nhưng dường như vẫn có một lời giải thích nào đó được đảm bảo cho việc sùng kính đã được thực hiện từ năm 1370 và đã được cử hành hằng năm trong suốt nhiều thế kỷ. Hơn nữa, không thể chối cãi phép lạ này đã được các vị giáo sĩ, giáo phẩm cũng như những người có chức quyền địa vị tôn kính ngay từ ban đầu. Hơn nữa, lịch sử của phép lạ đã được nhiều tác giả ghi lại, chẳng hạn R.P. Lucq, O.P.; Navez; Estienne Ydens; Cafmeyer; và Griffet.

Bất chấp lời đính chính, các du khách và các tín hữu Brussels vẫn tôn kính phép lạ này qua việc kính viếng ngôi nguyện đường, nơi các Bánh Thánh phép lạ này đang được lưu giữ. Nguyện đường này được khởi công xây dựng từ năm 1534, kích thước khang trang, và mang hàng chữ dâng kính “Bí Tích của các phép lạ.” Tại nguyện đường này cũng như trong phần chính của nhà thờ chính tòa, các tín hữu hành hương, du khách, và các tín hữu Brussels chiêm ngưỡng 99 tác phẩm mỹ thuật, kiến trúc, và công trình nghệ thuật có từ thế kỷ XIX, đa số diễn tả phép lạ Thánh Thể tại Brussels.

Một ngôi nhà thờ đáng được để ý tại Brussels là Chapelle de l’Expiation được xây dựng năm 1436 tại địa điểm của hội đường nơi phép lạ Thánh Thể đã xảy ra.

 


Каталог: wp-content -> uploads -> downloads -> 2011
2011 -> CÔng đỒng vatican II qua bốn thập niêN
2011 -> TÒa giám mục xã ĐOÀi chỉ nam giáo phận vinh lưỢC ĐỒ TỔng quáT
2011 -> Thiên chúa giáo và tam giáO Đường Thi Trương Kỷ
2011 -> Tác giả Võ Long Tê chưƠng I bối cảnh lịch sử
2011 -> LỊch sử truyền giáo tại việt nam quyển II lm. Nguyễn hồng chưƠng I: MỘt cha dòng têN Ở việt nam tới rôMA
2011 -> Các mẫu thức MẠc khải lm. Lê Công Đức
2011 -> Một lời nói đầu không phải là nơi nhiều chỗđể tóm lược lập luận của một cuốn sách cũng như định vị hoặc phát biểu về sựquan trọng của nó. Đây quả thực là một cuốn sách rất quan trọng
2011 -> LỜi giới thiệu suy tư ban đẦu về MẦu nhiệm giêSU
2011 -> Tu luật thánh biểN ĐỨc ngày 1 tháng 1

tải về 0.77 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương