ĐỀ CƯƠng tuyên truyền phong trào khởi nghĩa n’trang lơng (1912 1936) LỜi nóI ĐẦU


II. NGHĨA QUÂN N’TRANG LƠNG LIÊN TỤC TẤN CÔNG, GIÀNH LẠI QUYỀN LÀM CHỦ TÂY NGUYÊN (1913 – 1915)



tải về 165.4 Kb.
trang2/3
Chuyển đổi dữ liệu04.08.2016
Kích165.4 Kb.
#12703
1   2   3

II. NGHĨA QUÂN N’TRANG LƠNG LIÊN TỤC TẤN CÔNG, GIÀNH LẠI QUYỀN LÀM CHỦ TÂY NGUYÊN (1913 – 1915).

Bước sang năm 1913, trên cao nguyên M’Nông, phong trào khởi nghĩa do N’Trang Lơng lãnh đạo đang bước những bước tiến mới, chuẩn bị thế và lực liên tiếp mở những trận tấn công tiêu diệt địch.



1. Trận liên hoàn Bu Nor - Bu Mêra - Bu Bông.

Tình hình cao nguyên M'Nông trong mùa khô 1913-1914 rất căng thẳng. Trên phần cao nguyên thuộc Cao Miên do bị Henri Maitre tàn phá trong chiến dịch trả đũa mùa khô trước nên nhiều diện tích rẫy không làm được. Vụ thu hoạch cuối năm 1913 bị giảm sút nghiêm trọng, kéo theo là một nạn đói trầm trọng trong cả mùa khô 1913-1914. Trong khi đó, năm 1913, thuế thân tăng lên đến 7 đồng bạc Đông Dương một người. Đời sống của người M’Nông Biêt, Bu Nor và R’Hong vì vậy rất khổ cực. Khắp phần cao nguyên này lại nổ ra những trận chiến đấu chống thực dân Pháp, phong trào xây dựng làng chiến đấu chuẩn bị chống giặc diễn ra rầm rộ, đặc biệt ở nguồn sông Đăk Huich.

Đối với thực dân Pháp, lúc này việc lập một lỵ sở cho hạt đại lý đã trở thành một việc cấp bách. Do đó, cuối tháng 2-1914, Galchiê và Henri Maitre đến Bu Mêra, một làng M’Nông Nông trong lưu vực Đăk Rtih để xây dựng đồn đại lý. Bu Mêra là một làng đông dân và khá giả, nằm trên bờ Buk Xô có vị trí chiến lược cơ động nhất trong lưu vực Đăk Rtih và đối với toàn phần cao nguyên M'Nông. Bao quanh có nhiều làng khác như Bu Jâng Chet (cũng gọi là Bu Xiêt), Bu Ya, Bu Pu (U) Min và Bu Nđrung. Hành động của chúng bị nhân dân trong khu vực phản đối gay gắt.

Giữa tháng 6-1914, đồn Mêra bước vào thời kỳ sắp hoàn thành. Lực lượng vũ trang của Henri Maitre đã tăng lên đến 25 lính khố xanh Trung Kỳ và bảo an Cao Miên; ngoài ra có 4 tên phiên dịch, cai culi và bồi bếp, do một số tên đội khố xanh chỉ huy. Để bảo đảm hậu cần cho số quân đồn trú và bọn nhân viên phục vụ, khoảng giữa tháng 6-1914, Henri Maitre đi Giring lấy tiếp tế, hẹn sau 1 tháng sẽ trở về. N’Trang Lơng và hội đồng thủ lĩnh M’Nông Nông quyết định nắm lấy thời cơ này để khởi sự.

Quyết định của hội đồng thủ lĩnh dưới sự lãnh đạo và chỉ huy của N’Trang Lơng là: ngày Henri Maitre vừa về đến Mêra, bất ngờ dụ hắn đi Bu Nor ngay, lấy cớ N’Trang Lơng đang uy hiếp mạnh các làng M’Nông Nông đang chứa chấp hắn, hắn cần đến hợp lực với các làng đánh N’Trang Lơng. Mục tiêu trận Bu Nor là tiêu diệt Henri Maitre và một bộ phận quan trọng lực lượng vũ trang của hắn. Mục tiêu thứ hai phải đánh liền sau đó là đồn Mêra, tiêu diệt nốt số lính còn lại, cướp đoạt vũ khí và lương thực dự trữ.

Vị đầu làng Bu Jâng Chet là R’Đing vốn được Henri Maitre coi là một "đồng minh", nên là người có danh nghĩa nhất đứng ra kêu gọi Henri Maitre liên minh với người M’Nông Nông đi đánh N’Trang Lơng, và là người chủ trì lễ “kết minh”.

R’Ong Leng và Bơ Rơi Njưng là chỗ Henri Maitre đã qua lại nhiều lần, được hắn coi là chỗ quen thân, được giao nhiệm vụ thay R’Đing đến gặp Henri Maitre kêu cứu, dụ hắn đến Bu Nor để làm lễ “kết minh” trước khi xuất quân đi đánh N’Trang Lơng. Với tư cách là người đầu làng Bu Nor, R’Ong Leng sẽ phụ trách tổ chức lễ “kết minh” và tiếp đãi Henri Maitre. Việc bảo vệ từ xa, đón đánh viện quân địch có thể từ Ban Mê Thuột hay Krôchiê đến được giao cho người đầu làng làng Bu Bông. Khi trận Bu Nor đã kết thúc, R’Ong Leng có nhiệm vụ thu dọn chiến trường, còn N’Trang Lơng, R’Đing, Xning và Njưng hành quân cấp tốc đánh đồn Mêra vào ngày hôm sau.

Đúng hẹn và với một thái độ lạc quan, hoàn toàn yên tâm về người M’Nông Nông “tuy còn độc lập nhưng đã chịu khuất phục” ngày 24-7-1914, Henri Maitre từ Giring lên đường trở về Mêra, đến tối ngày 28 thì hắn về đến đồn. Thời điểm nghĩa quân mong đợi đã đến, khi Henri Maitre vừa xuống ngựa thì R’Ong Leng và Bơ Rơi Njưng đã chờ sẵn ở đồn, khẩn cấp kêu cứu, yêu cầu hắn xuất quân ngay phối hợp với các làng M’Nông Nông đi đánh N'Trang Lơng.

Cuộc gặp chóng đi tới thỏa thuận lập một liên minh Pháp với người M’Nông Nông chống N'Trang Lơng, Henri Maitre quyết định xuất quân ngay sáng hôm sau. Bu Nor được chọn làm điểm hội quân và một lễ “kết minh” sẽ được tổ chức trước khi hai bên cùng ra quân. Bu Nor, như đã biết, là một làng của R’Ong Leng, và đây lại là làng cửa ngõ đi lên phía Bắc và phía Tây vào các vùng M’Nông: Biêt, Bu Nor và R’Hong.

Sáng 29-7, Henri Maitre lên đường đi Bu Nor với một lực lượng 15 lính khố xanh, cả bọn phiên dịch, cai culi và bồi bếp tháp tùng. Ba voi vừa mới từ Giring về, trong đó có voi của Nchuh, đều bị Henri Maitre điều đi luôn để chở đạn, gạo và hành lý. R’Ong Leng đề nghị Henri Maitre không cần đem nhiều lính và Pactiđăng. Ông hứa sẽ cung cấp Pactiđăng cho hắn. Henri Maitre để lại giữa đồn Mêra chỉ một tên đội khố xanh và 7 lính với những thùng vũ khí mới đem ở Giring về.

Henri Maitre đến Bu Nor ngay chiều ngày 29-7, hắn được R’Ong Leng tiếp đãi theo đúng phong tục mến khách của người M’Nông. Lễ "kết minh" tổ chức ngay hôm sau, vào khoảng 8 giờ ngày 30-7-1914, tổ chức tại nhà R’Ong Leng. Lễ chính thức là cúng giàng, làm một lễ hiến sinh lấy nước phép rưới cầu may cho vũ khí. Vũ khí của cả đội bên được chất thành đống, kể cả khẩu súng lục của Henri Maitre. Khi Lễ chính thức bắt đầu, hắn vừa được đưa cần rượu cho uống trước thì N’Trang Lơng bước đến bên cạnh, ông hỏi y một câu có tính chất thách thức, và bằng một động tác chính xác, N’Trang Lơng rút dao ngắn đâm Henri Maitre một nhát trúng tim. Những nhát dao ngắn đâm tiếp theo là của các vị thủ lĩnh theo thứ tự quan trọng của mỗi người: Bơ Xing Rđing, R’Ong Leng, Bơ Ning Xning, Bơ Rơi Njưng. Đồng thời reo lên khắp nhà tiếng hô "Lơh! Lơh!" (Giết! Giết!). Nghĩa quân, cả đàn bà, nhảy xô vào bọn lính và tay chân của Henri Maitre, diệt kỳ hết, trừ người nài voi Nchuh đi thả voi mới về, ngồi xa đàn lễ, nghĩa quân không thấy nên thoát chết và được giữ lại làm tù binh.

Trận đánh đồn Mêra diễn ra ngay sau trận Bu Nor, trưa ngày 31-7-1914. N'Trang Lơng đích thân chỉ huy trận đánh với sự tham gia của Bơ Xing Rđing và Bơ Ning Xning. Vào lúc đứng bóng, đồn Mêra bị dân hai làng Bu Mêra và Bu Jâng Chet tràn vào, không chỉ đàn ông mà cả đàn bà. Nghĩa quân hóa trang thành lính khố xanh với trang phục lột được ở Bu Nor, trà trộn trong dân vệ để lọt vào đồn. Trận đánh đã tiêu diệt số ít lính và chỉ huy còn lại trong đồn diễn ra một cách nhanh chóng. Đây cũng là một trận thắng trọn vẹn nữa của nghĩa quân theo đúng kế hoạch đã định.

Trận Bu Bông, trận thứ ba trong thế đánh liên hoàn, là một trận đánh nhỏ, diễn ra như một ngẫu nhiên của lịch sử. Đây là một bằng chứng nữa nói lên sự đúng đắn của phương án tác chiến đã vạch ra, lòng trung thành vô hạn của nghĩa quân Bu Bông đối với N’Trang Lơng, ý thức chấp hành nghiêm túc quân lệnh của vị thủ lĩnh ở Bu Bông. Kết quả trận đánh, nghĩa quân đã tiêu diệt được một toán lính khố xanh của đại lý Buôn Ma Thuột áp giải tù đi Mêra.

Ngoài trận liên hoàn Bu Nor - Bu Mêra - Bu Bông, nghĩa quân N’Trang Lơng đã lần lượt tiêu diệt hai đồn Pu Klia và Pu Thông ở thượng lưu hai sông Prêk Tê và Prêk Chlong, giáng một đòn mạnh mẽ vào hệ thống đồn bốt của thực dân Pháp.



2. Trận Bu Tiên.

Bước vào mùa khô 1914-1915, thực dân Pháp chủ trương mở một cuộc hành quân càn quét xuyên suốt cao nguyên M'Nông từ tây xuống đông, một mặt để tìm diệt N’Trang Lơng và nghĩa quân; mặt khác cũng thăm dò khả năng đặt lại sự có mặt của chính quyền Pháp một mức nào đó trên cao nguyên.

Nhiệm vụ cuộc hành quân được giao cho tên công sứ Truphô (Trouffot) tỉnh Krochê với một tên quan một khố xanh Macgăng (Margand) làm phụ tá quân sự và tên đồn trưởng kiểm lâm Cuôcsăng (Coursante) làm người dẫn đường, xuất phát từ Xrây Chis đầu tháng 1-1915, nhằm hướng sông Đắk Ghbar (Tioba, gọi theo tiếng Khơme). Nghĩa quân do N’Trang Lơng trực tiếp chỉ huy bí mật theo dõi, bám sát địch và nhiều lần đã đánh quấy rối chúng dọc đường. Đến chiều 14-1-1915, Truphô dừng chân trú quân trong một khe núi thuộc làng Bu Tiên, ở phía Đông Bắc Xrây Chis, cách Krochiê khoảng 60km về phía Đông. Sau một đêm không trăng bao vây và phục kích toàn khu vực trú quân của địch, sáng sớm ngày 15-1-1915, nghĩa quân từ các phía trườn theo sườn núi đổ xuống đánh ập vào lều giết Truphô và Macgăng, tiêu diệt bọn lính không sót một tên, thu toàn bộ vũ khí, quân trang quân dụng, thu được bốn voi.

Trận Bu Tiên, là một trận tiêu diệt hoàn toàn thắng lợi nữa của N’Trang Lơng và nghĩa quân của ông, góp phần khẳng định ý chí, khả năng chiến đấu tiêu diệt địch, đồng thời, bẻ gãy ý chí xâm lược của thực dân Pháp trong một thời gian dài.



III. CHIẾN ĐẤU BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN THẮNG LỢI, MỞ RỘNG ĐỊA BÀN KHỞI NGHĨA (1916 - 1927).

Từ khi cao nguyên M'Nông sạch bóng giặc Pháp, cuộc sống nơi đây dần trở lại nếp sống cổ truyền, nhưng đã phải trải qua những khó khăn chưa từng thấy. Những hậu quả phá hoại kinh tế do Henri Maitre gây ra trong chiến dịch trả đũa đàn áp mùa khô 1912-1913 vẫn chưa khắc phục được thì nay giặc Pháp lại triệt đường tiếp tế muối, gây nên nạn lạt muối nghiêm trọng. Một số thủ lĩnh của phong trào nảy sinh dao động, nộp cho giặc một số súng mà nghĩa quân đã cướp được. Để giữ vững phong trào, dưới sự lãnh đạo của N’Trang Lơng (lúc này đã trở về với gia đình ở Bu Rlâm và đứng đầu làng này), nghĩa quân đã tiến hành một đợt thanh trừng bọn phản bội và bọn tay chân cũ của Pháp.

Do ảnh hưởng mạnh mẽ của cuộc khởi nghĩa N’Trang Lơng, phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp trên vùng cao nguyên Nam Đông Dương đã lan rộng ra nhiều khu vực, đặc biệt nổi lên là phong trào chống Pháp của người S’Tiêng ở Bà Rá. Đầu năm 1925, vùng Bà Rá vẫn còn nằm ngoài tầm với của thực dân Pháp ở đại lý Phú Riềng. Trước tình hình không chịu khuất của nhân dân S’Tiêng, thực dân Pháp chuyển sang dùng quân sự đánh chiếm vùng S’Tiêng Bà Rá. Cuộc xâm lược này được giao cho tên quan tư Cariê (Carrier) tiến hành với sự tài trợ của các công ty đồn điền cao su ở Nam Kỳ, với sự phối hợp và yểm trợ của các tên đại lý đồn trưởng các đồn Bu Đốp và Chlong Phlas cả về quân sự và chính trị. Trong hai mùa khô 1925-1926 và 1926-1927, Cariê liên tiếp càn quét vùng S’Tiêng Tây Bà Rá, rồi vùng S’Tiêng Đông Bà Rá; càn quét đến đâu, y cho làm đường đến đó. Mạng lưới đường y làm thọc sâu dần về phía Bắc vào vùng M’Nông – S’Tiêng. Do các cuộc càn quét ác liệt của Cariê, phong trào chống Pháp của đồng bào S’Tiêng khu vực Bà Rá tạm thời lắng xuống.

Đến đây, kết thúc giai đoạn (1916-1927) của cuộc kháng chiến chống Pháp lấn chiếm cao nguyên trở lại của hai dân tộc M’Nông và S’Tiêng. Với truyền thống chống xâm lược từ lâu đời, tấm gương chiến đấu và các chiến công oanh liệt của N'Trang Lơng đã động viên và cổ vũ đồng bào M’Nông và S’Tiêng tiến hành một cuộc chiến đấu anh dũng, giữ vững được phần lớn nhất đất đai, bảo vệ tự do trên quê hương, góp phần cổ vũ sức chiến đấu chống thực dân Pháp của đồng bào các dân tộc nhiều vùng trên Tây Nguyên, Nam Kỳ. Song, trước mắt đồng bào là một kẻ thù tàn bạo, ngày càng mạnh và càng quyết tâm chinh phục trở lại cao nguyên.



IV. ĐẤU TRANH QUYẾT LIỆT CHỐNG LẠI NHỮNG THỦ ĐOẠN TÀN BẠO, NHAM HIỂM CỦA KẺ THÙ (1928-1936).

Năm 1928, thực dân Pháp lộ rõ âm mưu chính thức xâm chiếm trở lại cao nguyên M’Nông. Cho đến lúc này, sức ép của việc khai thác đồn điền và xây dựng căn cứ quân sự chiến lược Tây Nguyên đã rất cấp bách, mặt khác, chúng còn phải đối phó với sự nổi dậy đấu tranh mãnh liệt của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Chúng đã nhận ra "kẻ thù đáng gờm nhất" trên các bước đường đánh chiếm miền cao nguyên đất đỏ là N’Trang Lơng, "từ sau vụ giết Henri Maitre (năm 1914), ông đã có một ảnh hưởng cực kỳ to lớn đối với các nhóm cư dân còn chưa chịu khuất phục trên miền cao nguyên", chỉ khi diệt được ông thì "mới gây được ấn tượng mạnh mẽ, có lợi cho cuộc xâm lấn...". Vì vậy, đồng thời với tăng cường đàn áp đánh phá miền Bắc Tây Nguyên, chúng tập trung ra sức tìm diệt N'Trang Lơng. Quá trình thực dân Pháp xâm lược trở lại cao nguyên M'Nông là một cuộc đối đầu ngày càng quyết liệt, một mất một còn giữa N’Trang Lơng và chúng.

Cuộc kháng chiến của nghĩa quân N'Trang Lơng từ năm 1928 đến năm 1936, có thể chia giai đoạn này làm ba thời kỳ:

1. Thời kỳ từ 1928 đến giữa mùa khô 1930-1931.

Thời kỳ này, thực dân Pháp mở đầu lấn chiếm cao nguyên M'Nông bằng phương pháp hòa bình, âm mưu đó của thực dân Pháp đã bị N'Trang Lơng kết thúc bằng trận đánh tiêu diệt tên đại lý Xnul vào tháng 1-1931.

Mở đầu thời kỳ thực dân Pháp âm mưu lấn chiếm "hòa bình" cao nguyên M'Nông, chúng quyết định làm đoạn đường chiến lược 14 qua phần cao nguyên này thuộc đất Cao Miên để hoàn thành việc nối liền ba xứ và dùng làm đường hành quân bình định phong trào chống lại chúng; mặt khác, chúng quyết định thành lập tiểu đoàn pháo thủ sơn cước Nam Trung Kỳ, dùng làm công cụ đàn áp các phong trào chống lại chúng trên vùng núi và cao nguyên chúng đã kiểm soát được, chỉ huy sở đóng tại Buôn Ma Thuột, một lực lượng lớn đóng tại Buôn Ma Thuột trấn giữ cao nguyên M’Nông, bộ phận còn lại đóng tại Kon Tum trấn giữ vùng Bắc Tây Nguyên.

Tuyến đường 14 trên đất Cao Miên chạy qua một vùng M'Nông cho đến năm 1928 vẫn còn là một vùng tự do hay vùng ly khai với Pháp. Để yểm trợ cho công trường làm đường, thực dân Pháp ở đồn đại lý Xnul (Cao Miên) thường xuyên cho một lực lượng bảo an mạnh tuần tiễu dọc tuyến đường. Đồng thời, sự yểm trợ từ xa cũng được giao cho hai đồn đại lý Chlong Phlas (Cao Miên) và Bu Đốp (Nam Kỳ). Trong tháng 2-1928 và những tháng tiếp theo, hai đồn này đã liên tục mở những cuộc hành quân phối hợp càn quét từ phía Nam lên theo lưu vực Đắk Glun (đầu nguồn sông Bé) và các chi lưu của con sông này. Trước sức ép nhiều phía của quân Pháp, người R’Hong và người M'Nông trong khu vực tạm thời nằm yên hoặc lánh sâu vào rừng ly khai với giặc.

Trong tình hình đó, khi con đường 14 vừa lên tới đỉnh dốc đường phân thủy để đi vào cao nguyên Đồi Cỏ thì nghĩa quân N'Trang Lơng tổ chức phục kích ngày 26-1-1931, tại La Pam, km 70 (kể từ biên giới Nam kỳ - Cao Miên), nghĩa quân đã đánh và tiêu diệt tên đại lý đồn trưởng Xnul kiêm chỉ huy công trường đường Gati (Gatille). Tin N'Trang Lơng và nghĩa quân diệt được Gati đã có tác động như một hiệu lệnh làm dấy lên trên toàn cao nguyên một phong trào chống Pháp sôi sục, bùng lên khắp nơi một phong trào dấp rừng, lập làng chiến đấu, chuẩn bị chống giặc, khí thế bừng bừng như thời kỳ đầu của cuộc khởi nghĩa. Các công trình làm đường, các đồn điền của Pháp liền bị dìm vào cảnh thiếu công nhân và hoàn toàn tê liệt. Tình hình trên cao nguyên đã trở nên cực kỳ nghiêm trọng, làm kinh động cả bọn cầm quyền chóp bu ở Đông Dương. Từ đây diễn ra một cuộc đối đầu thật sự giữa một bên là nghĩa quân N'Trang Lơng và đồng bào M'Nông và S’Tiêng, một bên là tên toàn quyền Đông Dương Pie Paxkiê và tên tướng Biôt (Billote), tổng chỉ huy quân đội thuộc địa Pháp ở Đông Dương với lực lượng quân sự và phương tiện chiến tranh to lớn của chúng, một cuộc đối đầu kéo dài hơn 3 năm và đã kết thúc bằng thắng lợi của nghĩa quân N'Trang Lơng và đồng bào các dân tộc Tây Nguyên.

2. Thời kỳ từ giữa mùa khô 1931-1932 đến giữa mùa khô 1933-1934.

Thời kỳ bọn thực dân Pháp chóp bu ở Đông Dương ra tay trực tiếp cầm quân, ba xứ Nam Kỳ, Trung Kỳ, Cao Miên phối hợp ra quân liên tục càn đi quét lại cao nguyên M'Nông, nhưng cuối cùng đã thất bại; đánh dấu sự thất bại này là hai trận đánh phối hợp của nghĩa quân N'Trang Lơng và nghĩa quân S’Tiêng hai ngày đầu tháng 1-1934.

Mở màn của thời kỳ đối đầu này là những cuộc họp từ tháng 2 đến tháng 8-1931 của P.Paxkiê và Biôt bàn về chủ trương và kế hoạch đưa lực lượng quân đội thuộc địa của chúng vào đánh dẹp cuộc nổi dậy của người M'Nông và người S’Tiêng dưới sự lãnh đạo của N’Trang Lơng. Dưới sự chỉ huy trực tiếp của P.Paxkiê và của Biôt, đến tháng 10-1931, kế hoạch bình định cao nguyên M'Nông của Pháp đã vạch xong. Mục tiêu của kế hoạch này là càn quét tiêu diệt N'Trang Lơng và nghĩa quân của ông kết hợp với việc đẩy mạnh làm đoạn đường 14 từ Xrây Ktum (Cao Miên) đi Buôn Ma Thuột. Lực lượng để dập tắt phong trào N’Trang Lơng là một tiểu đoàn quân đội thuộc địa làm chủ lực, một phân đội không quân làm nhiệm vụ thám thính và oanh kích. Ngoài ra, các chi đội khố xanh Buôn Ma Thuột, bảo an của Bu Đốp và của Chlong Phlas dùng làm lực lượng phối hợp hay hỗ trợ tác chiến. Chúng sẽ tiến hành những cuộc càn quét ngang dọc theo nhiều hướng khác nhau trên toàn bộ khu vực trong đường tròn khép kín từ Buôn Ma Thuột qua Kinda, Girinh, Võ Đắt (Trung Kỳ), Bà Rá, Bù Đốp (Nam Kỳ), Xrây Ktum, Chlong Phlas (Cao Miên).

Giữa mùa khô 1931-1932, vào tháng 12-1931, Biôt ra lệnh xuất quân. Ngay từ đầu, kế hoạch xuất quân đã phải điều chỉnh. Thay vì 6 cánh quân đã dự kiến cùng một lúc tung ra càn ngang quét dọc trên toàn địa bàn cao nguyên M'Nông, Biôt chỉ tổ chức được ba mũi tiến công: hai mũi theo hướng chính, tức theo trục con đường 14 tương lai, trong đó một mũi xuất phát từ Xrây Ktum (Cao Miên) và một mũi xuất phát từ Buôn Ma Thuột (Trung Kỳ), điểm tụ quân của hai mũi chính là ngã ba biên giới. Còn mũi thứ ba xuất phát từ Bu Đốp (Nam Kỳ) là mũi theo hướng phụ, mục tiêu của mũi này là vùng trung lưu sông Đồng Nai - lưu vực Đắk Rtih.

Cánh quân Buôn Ma Thuột do quan ba Maya (Maillard) chỉ huy, lực lượng gồm một đại đội của tiểu đoàn pháo thủ sơn cước Nam Trung Kỳ và một chi đội khố xanh của Buôn Ma Thuột. Cuộc hành quân của Maya từ bên kia bờ sông Srêpốc bị đồng bào Preh liên tục đánh quấy rối. Xuất phát từ Ea Tul đầu tháng 1-1932, sau hơn một tháng lội rừng, cho đến ngày 12-2-1932, quân của Maya mới tới được Bu Jâng Đrâm, một làng M'Nông trên hữu ngạn Đắk Đăm, cách Ea Tul chỉ khoảng 70 km. Tại Bu Jâng Đrâm, Maya đã cắm đồn đặt ngay đại lý Đắk Đăm, hòng khống chế vùng này và mở rộng kiểm soát vào vùng M'Nông Nông tại Đắk Rtih.

Cánh quân Xrây Ktum cũng xuất phát trong tháng 1-1932, nhưng muộn hơn cánh quân Buôn Ma Thuột, lực lượng gồm một đại đội quân thuộc địa, điều từ Phnôm Pênh tới và nhiều lính bảo an địa phương, tất cả do quan ba Ghiô (Guillot) chỉ huy. Cánh quân này được giao nhiệm vụ càn quét trên một đoạn độc đạo của con đường 14. Trên đường đi, chúng bị nghĩa quân liên tục đánh phá, phải mất gần 9 tháng mới tiến được 75 cây số, 40 lính chết, 200 bị trọng thương.

Còn cánh quân Bu Đốp gồm một trung đội lính bảo an Nam Kỳ do Giecbe (Gerbar) đồn trưởng kiêm đại lý chỉ huy cũng xuất phát vào giữa tháng 1-1932 và hành quân theo thượng lưu sông Bé để đi vào vùng Nâm Nung - Đắk Rtih - trung lưu sông Đồng Nai. Cánh quân này đã bị đánh bật trở lại khi chúng vừa đặt chân lên vùng đất của người M’Nông Nông.

Cuộc phản kích đầu tiên của nghĩa quân N'Trang Lơng nổ ra giữa mùa khô 1932-1933 với lực lượng hơn 200 người (tương ứng với hơn 20 làng liên minh) đánh vào đồn Gati, cứ điểm vệ tinh lớn của đồn đại lý Lơ Rôlăng, cắm tại cây số 65 đoạn đường 14 trên đất Cao Miên. Trận đánh xảy ra ngày 6-1-1933, bằng tên nỏ và súng trường, một cánh quân dưới sự chỉ huy trực tiếp của N’Trang Lơng đánh vào mặt đồn Gati. Đồng thời, một cánh nghi binh khác được bố trí để đánh diệt viện ở xa về phía Tây Nam, tại km 50. Cuộc tập kết của nghĩa quân bị lộ nên tên quan ba Bruynê (Brunet) chỉ huy tập đoàn cứ điểm Lơ Rôlăng đã kịp thời điều quân tăng cường các đồn bốt dọc đường 14. Cuộc tấn công của nghĩa quân không vì vậy mà kém phần quyết liệt. Lực lượng Pháp ở Gati gồm có 60 lính khố đỏ, dưới sự chỉ huy của đồn trưởng Caxtel (Castel), bắn liên thanh ra rất dữ dội. Nghĩa quân rút vào các công sự đã đào sẵn, nổi lửa đốt cỏ tranh quanh đồn đánh hỏa công. Trong khi chờ viện binh, quân Pháp rút xuống hầm cố thủ, phản kích bằng lựu đạn phóng bằng súng. Quân cứu viện của Pháp do tên đội Lơcôngtơ (Lecote) chỉ huy, gồm 30 tên rút từ đồn cây số 55. Khi chúng vừa tới cây số 58 thì bị nghĩa quân đón đánh, bắn hỏng chiếc ôtô chở chúng, buộc chúng phải hành quân lội bộ qua rừng. Đến cây số 62, Lơcôngtơ trúng chông bị loại ra ngoài vòng chiến đấu, phải khiêng đến đồn cây số 63 để cấp cứu. Từ đó Pháp phải dời đồn Gati lên đóng ở một điểm cao và xây dựng kiên cố hơn, có hầm hào và hàng rào dây thép gai vây quanh.

Sau trận đánh đó, những người M’Nông Biêt và R’Hong đi theo N’Trang Lơng rất đông. Về phía thực dân Pháp, chúng phản ứng quyết liệt, cho máy bay ném bom khủng bố hai làng Bu Than và Bu Ju, gần Gati mà chúng nghi là nơi để nghĩa quân dùng làm chỗ tập kết trước trận đánh. Hai tháng sau, chúng mở một chiến dịch lớn nhằm càn quét nghĩa quân, chặn đứng phong trào chạy theo liên minh với N’Trang Lơng. Địa bàn càn quét của chiến dịch lớn này là toàn bộ vùng R’Hong và vùng M’Nông Nông. Lực lượng Pháp đưa vào các mũi hành quân càn quét gồm có 60 lính khố đỏ đồn Bu Jâng Đrâm do Huya chỉ huy, 60 lính bảo an đồn Bu Đốp do Giecbe chỉ huy và 60 lính khố đỏ đồn Lơ Rôlăng do Bruynê chỉ huy, hình thành 3 mũi giáp công mở vào ngày 15-3 nhằm vùng trung tâm của khu vực đang có phong trào đấu tranh mạnh mẽ. Cũng trong chiến dịch này, Pháp dựng thêm hai đồn mới: đồn Bu Koh ở vùng M'Nông – S’Tiêng đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của đồn đại lý Bu Đốp, và đồn Met vẫn quen gọi là Bốt Met (Poste Maitre) gần ngã ba biên giới, tại giao điểm của bốn nhóm M'Nông: Biêt, Bu Nor, R’Hong và Nông, dùng làm lỵ sở mới cho đại lý Đắk Đăm, thay đồn Bu Jâng Đrâm, để trực tiếp khống chế phong trào của bốn nhóm này.

Đầu tháng 1-1934, hai trận đánh nổ ra liền nhau như hưởng ứng lẫn nhau: trận ngày 1-1 đánh vào đồn Lơ Rôlăng do chính N'Trang Lơng chỉ huy, và trận ngày 2-1 đánh vào đồn Bu Koh của nghĩa quân M'Nông – S’Tiêng vùng khuỷu sông Đồng Nai. Tham gia trận đánh đồn Lơ Rôlăng có tới 400 hoặc 500 nghĩa quân của khoảng 50 làng thuộc nhóm M’Nông: Biêt, R’Hong, Bu Nor và Nông liên minh với N'Trang Lơng trong mùa mưa. Một bộ phận nghĩa quân khi kéo đến địa điểm tập kết ở Bu Krak đã bị địch phát hiện. Vì vậy địch ở Lơ Rôlăng, một mặt đã kịp thời tăng viện bố phòng kiên cố, mặt khác mở một cuộc hành quân đánh đón đường. Một bộ phận của nghĩa quân đã lọt được vào đồn và xung phong mãnh liệt, nhưng rốt cuộc bị hỏa lực của địch quét mạnh nên nửa chừng phải bỏ dở cuộc tấn công.



3. Thời kỳ thứ ba cũng là thời kỳ cuối cùng từ giữa mùa khô 1934-1935 đến giữa mùa khô 1935-1936.

Thực dân Pháp tăng cường lực lượng, thống nhất chỉ huy ba xứ, liên tục vây quét khu vực đầu não của phong trào kháng chiến; cũng là thời kỳ N'Trang Lơng và các bạn chiến đấu của ông liên tục tiến công địch "quyết tâm bằng mọi giá đánh đuổi Pháp một lần nữa ra khỏi cao nguyên".

Bước vào mùa khô 1934-1935, khắp cao nguyên, nhân dân M'Nông và S’Tiêng lại nổi lên rào làng, dấp rừng chống Pháp. Cuộc đối đầu ngày càng quyết liệt giữa nghĩa quân N'Trang Lơng và giặc Pháp.

Nổi dậy sớm nhất, ngay từ đầu mùa khô, là các làng M’Nông Biêt phía Bắc đồn Lơ Rôlăng. Đây là những làng đã tham gia đánh đồn này hồi đầu năm "mưu giết tên đại lý Chlong Phlas". Xa hơn về phía Bắc, cuộc nổi dậy của người M’Nông Biêt càng sôi sục. Giặc Pháp ở Chlong Phlas đã buộc phải mở một cuộc hành quân càn quét về hướng đó cho đến bờ sông Srêpốk. Ngày 4-3-1935, một đồn Pháp - đồn Đêhay (Deshsyes), đã được dựng lên ở vùng M’Nông Biêt xa xôi, hẻo lánh cách Lơ Rôlăng 82 cây số. Nhưng đồn này vừa dựng lên hôm trước thì ngày hôm sau đã nổ ra trận đánh lớn thứ hai của N'Trang Lơng vào đầu Lơ Rôlăng, trận đánh đã kinh động một lần nữa bọn cầm quyền chóp bu buộc chúng sau đó phải thay tướng, tăng quân.

Một phong trào chống Pháp lại bùng lên trên gần 80 cây số từ tây đến đông và 50 cây số từ nam tới bắc. Giặc Pháp truy lùng nghĩa quân ráo riết buộc nghĩa quân phải không ngừng di chuyển, nhưng khi giáp mặt với quân thù, nghĩa quân vẫn chiến đấu rất anh dũng. Chính viên quan tư Nyô, kẻ đang đối mặt với N'Trang Lơng cũng buộc phải nhìn nhận rằng: "Thủ lĩnh N'Trang Lơng hồi này đã chừng 50 tuổi nhưng vẫn rất khỏe mạnh... và hàng chục vị thủ lĩnh kiên cường, dũng cảm khác, tất cả đều quyết tâm bằng mọi giá đánh đuổi ta (Pháp) ra khỏi cao nguyên Trung Tâm (cao nguyên M'Nông) một lần nữa”.

4. N'Trang Lơng anh dũng hy sinh - phong trào khởi nghĩa đi vào thoái trào và kết thúc.

Sau trận N'Trang Lơng đánh đồn Gati ngày 29-4-1935, thực dân Pháp thấy rõ bị uy hiếp mạnh, nên từ đầu tháng 5-1935 trở đi, chúng tung quân ra sức truy lùng nghĩa quân, bất chấp các cơn mưa đầu mùa xối xả, núi cao, rừng sâu. Trong hoàn cảnh đó, N'Trang Lơng tạm lánh về quê cũ, ẩn náu trong một vùng rừng gần Bu Par. Sự có mặt của ông ở đây đã bị tên phản bội Bơ Mpông Phê, chỉ điểm của Pháp phát hiện. Bơ Mpông Phê vốn là đầu làng làng Bu Rtung và là một thủ lĩnh nghĩa quân thời kỳ đầu cuộc khởi nghĩa. Thời kỳ sau năm 1915, thời kỳ khó khăn trên cao nguyên, hắn đã giao động chạy theo giặc, nộp cho giặc một số súng mà nghĩa quân đã cướp được, nên bị nghĩa quân trừng phạt nghiêm khắc. Vào lúc N'Trang Lơng bị hắn phát hiện thì một cánh quân của Nyô do tên quan hai Lơ Bel (Le Belle) chỉ huy với sự hiệp lực của tên Bêxret (Besrest), quan một bảo an ở Chlong Phlas, đang ráo riết săn lùng ông, cách nơi ông ẩn náu khoảng một ngày đường, Bơ Mpông Phê đã tìm Pháp, đưa chúng đến bao vây ông. Tại đây, diễn ra trận chiến đấu cuối cùng, bất ngờ và không cân sức, buộc ông phải chấp nhận. N'Trang Lơng mất sáng ngày 23-5-1935 tại Bu Par, ít ngày sau khi ông bị Pháp bắn trọng thương trong trận chiến đấu cuối cùng tại làng này. Ông ngã xuống trong tay vẫn còn cầm khẩu súng theo ông chiến đấu đã hơn hai mươi năm; và lúc này vẫn còn nóng bỏng những viên đạn cuối cùng mà người anh hùng chống Pháp bắn vào đầu giặc.

N’Trang Lơng hy sinh, phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp trên cao nguyên M’Nông lắng xuống, đi vào thoái trào nhưng ảnh hưởng của phong trào đã không ngừng vươn cao, vươn xa. Chỉ sau đó không lâu, phong trào đấu tranh của đồng bào các dân tộc Đắk Nông nói riêng và đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, Nam Bộ nói chung lại bùng lên và lan rộng hơn trước, trong đó phong trào “Nước Xu” do Săm Brăm lãnh đạo là một điển hình.



tải về 165.4 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương